Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (III)

30 Tháng Tám 202212:29(Xem: 1364)
Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (III)
Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (III)

Poster_Talkshow_09


TỘI BA-LA-DI KHÔNG THỂ SÁM HỐI THỜI PHẬT
VÀ BỐI CẢNH XÃ HỘI ĐƯƠNG THỜI

Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.

1. Tội dâm – nhận định trong thời Phật và liên hệ đến cuộc sống hiện tại:

Từ ngàn xưa cho đến nay, tình dục của con người có lẽ là một trở ngại lớn nhất đối với những ai đã lựa chọn con đường tâm linh tôn giáo. Trong Phật giáo, những tu nữ, hay tu nam nếu chưa chế ngự được nó vẫn là nỗi ám ảnh thường trực giữa ranh giới thanh tịnh, trinh khiết, độc thân, thủ dâm, mộng tinh, phạm giới… Trong bối cảnh nghiên cứu hiện tại, chúng ta không phê phán công kích những người bất tuân thủ quy tắc độc thân, mà ca ngợi sự thành công trong tôn giáo, bàn về nếp sống lý tưởng giải thoát trong tu viện.

Lâu nay, nhiều người bối rối không biết thái độ của Phật giáo đối với tình dục như thế nào khi điểm thiết yếu trong đời sống tu viện là luôn đề cao kiềm chế tình dục. Đạo Phật không bao giờ tránh nè đề tài này, trong Luật tạng đức Phật quy chế giới điều như một hình thức đề cập đến “Đạo đức tình dục”. Chúng ta thảo luận đến chuyện sám hối tội ba-la-di chính là nói đến môn học “Đạo đức” này.

Trước hết chúng ta phải hiểu vì sao tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni quan hệ tình dục là phạm ba-la-di, bị ngăn cấm tuyệt đối. Vì người xuất gia được gọi là Phạm hạnh. Phạm hạnh (梵行, Skt. brahma-caryā, P. brahma-cariya), từ này là một khái niệm trong các tôn giáo Ấn-độ (Indian religions) có nghĩa đenduy trì hạnh kiểm bên trong Bản ngã của chính mình (own SelfĀtman) và Ấn-độ giáo (Hinduism), Phật giáo (Buddhism) và Kỳ-na giáo (Jainism)… thường nói đến nó là đề cập một lối sống đặc trưng bởi sự kiềm chế tình dục hoặc kiêng cử hoàn toàn.[1] Riêng đối với Phật giáo, ham muốn khoái cảm (pīti) tình dục sẽ làm trở ngại thiền định (jhāna), phương hại đến con đường tâm linh tiến tới giác ngộ, cũng là nguyên nhân tiềm ẩn dẫn dắt cho sự tái sanh tiếp diễn.

Vì sao đức Phật không cho sám hối?

Trong luật các bộ phái ghi chép rằng, nếu tỳ-kheo quan hệ với các đối tượng như sau sẽ phạm ba-la-di: người nữ, thiếu nữ chưa đủ tuổi thành niên (đồng nữ, Skt. kumārīdārikā), súc sinh cái, súc sanh đực, phi nhân (không phải người, chỉ các loại trời, thần và tương tự. Pāli: amanussa.) nữ và nam; đồng tính nam (gays), đồng tính nữ (lesbians), trong luật gọi là nhị hình, hai căn (Nhị hình 二形, nhị căn 二根. Pāli: ubhatovyañjana, hermaphrodite, intersex); người bị hoạn (eunuch), nam căn không hoàn chỉnh, bất lực (Huỳnh môn 黃門, Vô căn 無根, bất năng nam 不能男, bán-trạch-ca 半擇迦, Skt. paṇḍaka, kaṇḍāka). Và quan hệ qua ba đường: đường tiểu tiện, đại tiện và miệng đều phạm ba-la-di. Hoặc tỳ-kheo khỏa thân quan hệ với người nữ mặc y phục, ngược lại; hoặc tỳ-kheo hành dâm với người nữ mới chết, người nữ điên v.v… đều phạm ba-la-di.[2] Đặc biệt luật Tăng-kỳ (p. 238a16) còn cấm cả việc tỳ-kheo đi mua dâm.

Những hình thức phạm tội trên luật bộ phái trình bày rất chi tiết, và từ đây cho chúng ta thấy rằng, sau khi tỳ-kheo Sudinna phạm giới đầu tiên, các tỳ-kheo tiếp tục phạm giới, tìm mọi cách tránh né với điều lệ ban đầu Phật quy định để quan hệ, cho rằng làm như thế sẽ không phạm giới. Hoặc nói cách khác cũng do tâm sinh lý và nghiệp của chúng sanh đa dạng nên mới có nhiều hình thức phạm giới phức tạp, càng lúc càng nhiều.

Đến đây chúng ta có thể đưa ra kết luận vì sao đức Phật không cho sám hối:

  1. Mục đích của tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni khi xuất gia, thọ giới cụ túc, là phải tu tập thành tựu giải thoát ngay trong đời này, mà ngay trong đời hiện tại họ không kham nỗi, nghiệp chướng nặng nề, tiếp tục để họ ở trong đạo không có ích lợi gì, buộc cho họ về nhà gieo trồng phước thiện đời sống cư sĩ.
  2. Khi Phật chế giới nhắm đến 10 ý nghĩa, trong đó có hai điều: Một, để cho tín đồ chưa có niềm tin sinh tín tâm; hai, đã có tín tâm thì được tăng trưởng.[3] Cho nên đối với Tăng bảo là đoàn thể thanh tịnh, là nơi quy ngưỡng tâm linh cho các tín đồ, cũng là dấu hiệu “Chánh pháp cửu trụ thế gian”. Nếu tỳ-kheo có đời sống hoen ố sẽ làm lung lay niềm tin nơi tín đồ, lòng mộ đạo của họ tất sụp đổ, tác động xấu đến đoàn thể Tăng.

2. Tội không cho mà lấy:

Đây là tội phạm liên quan đến hình sự. Giới văn trong các bộ luật ghi chép tương tự như nhau:

“Tỳ-kheo nào, nơi thôn xóm hay chỗ trống vắng (ngoài thôn), với tâm trộm cắp, lấy vật không được cho, tùy theo vật không được cho mà lấy, hoặc bị vua hay đại thần của vua bắt, hoặc giết, hoặc trói, hoặc đuổi ra khỏi nước, nói rằng ‘Ngươi là giặc, ngươi ngu si, ngươi không biết gì’, thì tỳ-kheo ấy là kẻ ba-la-di, không được sống chung.”[4]

Luật Thập tụng có thêm “hoặc bị định tội phạt vàng”[5], các bộ khác giống nhau.

Luật Thập tụng (p. 4a26), Căn bản (p. 637a3) kể rằng, sau khi tỳ-kheo Dhaniya bị buộc tội lấy gỗ của triều đình, đức Phật bảo A-nan vào thành Vương xá, thủ phủ nước Magadha, hỏi những người hiểu luật pháp, xem lấy trộm bao nhiêu sẽ bị vua Ajātaśatru xử đại tội. Luật Tứ phần (p. 573b3), Ngũ phần (p. 6a3), Pāli (Vin. iii. 45): Đức Phật hỏi một tỳ-kheo nguyên là đại thần tư pháp. Luật Tăng-kỳ (p. 242c19), đức Phật hỏi trực tiếp vua Bimbisāra.

Tứ phần, Ngũ phần, Thập tụng đều ghi, theo luật hiện hành của nước Magadha lúc bấy giờ, nếu trộm tối thiểu từ 5 tiền (五錢) trở lên, phạm trọng tội, có thể bị tử hình. Luật Căn bản (p. 637a9) dịch là 5 ma-sái (五磨灑, P. pañca-māsaka). Luật Tăng-kỳ (p. 242c22) nói: Một kế-lị-sa-bàn (罽利沙槃, Skt. kārṣāpaṇa) bằng 19 tiền, nếu lấy trị giá bằng ¼ kế-lị-sa-bàn sẽ xử tội chết.

Kārṣāpaṇa, là loại tiền cổ Ấn-độ, có từ thế kỷ thứ 6 trước Tl., lưu hành thời vua Bimbisāra (khoảng năm 492- 460 trước Tl.) và Ajātaśatru (552-520 trước Tl.). Kārṣāpaṇa chỉ cho những đồng tiền vàng, bạc và đồng nặng 80 ratis hoặc 146,5 hạt (grains).[6] Còn từ māsaka (Skt. māṣaka) là tên hạt đậu nhỏ, những người thợ kim hoàn thời ấy dùng nó để cân trọng lượng và tính giá trị vàng, bạc; hoặc tên một loại tiền giá trị nhỏ, 80 kaparda = 1 māsaka; 20 māsaka = 1 kārṣāpaṇa; 5 māsaka cũng bằng ¼ của kārṣāpaṇa. Do đó, tuy các bộ luật biên tập lại có hơi khác nhưng định mức phạm tội với giá trị số tiền giống nhau.

Theo luật pháp của Việt Nam hiện nay, căn cứ điều 174 trong Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở mục 4: a). Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, và b) lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, sẽ bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, hoặc tù chung thân. Vậy luận tội tỳ-kheo theo luật Việt Nam nói riêng vào thời điểm hiện nay thì tỳ-kheo trộm cắp, lừa gạt, biển thủ… số tiền từ năm trăm triệu đồng trở lên là phạm ba-la-di.

Tội trạng này vào thời Phật và xã hội hiện tại không thể cho tỳ-kheo sám hối với lý do như sau:

Câu văn: Bị vua, hay đại thần của vua bắt, hoặc bị trói, bị giết, bị đuổi ra khỏi nước, hoặc bị định tội phạt vàng. Và tuyên bố“Ngươi là giặc, ngươi ngu si, ngươi không biết gì.” Đây là một kiểu tòa án đã tuyên án, dựa trên cơ sở chứng cứ với tội danh ăn trộm và căn cứ đánh giá tài sản bị thiệt hại, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội với xã hội, rồi đưa ra phán quyết hình sự: bị trói, bị giết, bị đuổi khỏi nước, bị phạt vàng.

Nếu xét trong thời Phật và xã hội đương thời, một khi tỳ-kheo bị bắt, giới thể tỳ-kheo ấy đã mất lại bị nhốt trong tù nữa, thì tu thế nào mà giải quyết sám hối. Trường hợp cụ thểViệt Nam, có một tỳ-kheo đã lừa gạt Phật tử lấy 68 tỷ đồng, trong năm 2020 thầy này bị trục xuất khỏi Tăng đoàn và bị chính quyền bắt cùng năm đó. Cho nên không có pháp sám hối dành cho tội trạng này. Có trường hợp ngoại lệ, nhiều tỳ-kheo lấy tiền của Tam bảo vượt “ngưỡng cửa” năm trăm triệu, bị phát hiện, nhà chùa giữ thể diện cho họ, âm thầm trục xuất ra khỏi chùa. Những vị này dù đi nơi khác tu tập, giới thể của tỳ-kheo cũng không còn.

Chúng tôi rộng bàn thêm về từ “bị giết”, các bản Hán khi truyền dịch hiểu nhầm chữ Phạn: Hanyāt, Pāli: Haneyyuṃ, có nghĩa là bị hành hạ, bị gây tổn hại, lại hiểu rằng: 5 tiền là mức giá trị để xử tử tội ăn trộmtỏ ra không thắc mắc gì khi dịch thành “bị giết, bị xử tử.”[7] Luật Pāli (Vin. 3. 47) định nghĩa như sau: “Bị hành hạ”, là họ có thể bị hành hạ bằng tay, hoặc bằng chân, hoặc bằng roi, hoặc bằng hèo, hoặc bằng gậy, hoặc tra khảo cho tàn phế (Haneyyuṃ vā ‘ti hatthena vā pādena vā kasāya vā vettena vā addhadaṇḍakena vā chejjāya vā haneyyuṃ).[8]

Do đó bản án xử tội trộm cắp ở mức độ nghiêm trọng nhất vẫn ở khung hình phạt chung thân. Chỉ ở Trung Quốc vào năm 2015, một người bị bắt với tội danh “đào bới các di tích văn hoá cổ và mộ cổ”, bị tuyên án tử hình mà thôi.[9]

(Còn tiếp)


Mùng 9 tháng 7 năm Nhâm dần

Cittacakkhu


[1] Cf. https://en.wikipedia.org/wiki/Brahmacharya.

[2] Thập tụng 1, p. 2c21. Ngũ phần 1, p. 5a1. Tứ phần 1, p. 571c10. Tăng-kỳ 1, p. 233c3…

[3] Ngũ phần p. 3c1; Tăng-kỳ p. 228c24; Tứ phần p. 570c3; Thập tụng p. 1c15; Pāli, Vin. iii. p. 32.

[4] Tứ phần p. 573b8; Ngũ phần p. 6a16; Thập tụng p. 4a29…

[5] Thập tụng (p. 4b2): Thâu kim tội 輸金罪.

[6] https://en.wikipedia.org/wiki/Karshapana.

[7] Cf. Tứ phần hiệp chú, HT. Trí Thủ & Tuệ Sỹ biên soạn: Ch. Ba-la-di, điều 2. Bất dữ thủ.

[8] Cf.《經分別》卷1, N01, no. 1, p. 61a4.

[9] https://cand.com.vn/Ho-so-interpol-cstc/An-tu-cho-vua-trom-mo-cua-Trung-Quoc.


Xem:
– Phần I
– Phần II

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 30647)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 21005)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20194)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19420)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24374)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30645)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15679)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27777)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19759)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15563)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23229)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23552)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17512)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15687)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21859)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 37977)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22132)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23224)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21330)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28406)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32525)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25162)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34667)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22929)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27693)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31283)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13591)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25151)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27796)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22071)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20721)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22208)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27102)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24124)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21883)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14703)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23135)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 24006)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21089)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14192)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19926)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22492)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14061)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 28019)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22805)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28182)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 10973)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28487)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31551)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26159)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 14930)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28032)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7422)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25336)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20694)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21117)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12227)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11900)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12795)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26636)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant