Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (III)

30 Tháng Tám 202212:29(Xem: 1266)
Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (III)
Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (III)

Poster_Talkshow_09


TỘI BA-LA-DI KHÔNG THỂ SÁM HỐI THỜI PHẬT
VÀ BỐI CẢNH XÃ HỘI ĐƯƠNG THỜI

Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.

1. Tội dâm – nhận định trong thời Phật và liên hệ đến cuộc sống hiện tại:

Từ ngàn xưa cho đến nay, tình dục của con người có lẽ là một trở ngại lớn nhất đối với những ai đã lựa chọn con đường tâm linh tôn giáo. Trong Phật giáo, những tu nữ, hay tu nam nếu chưa chế ngự được nó vẫn là nỗi ám ảnh thường trực giữa ranh giới thanh tịnh, trinh khiết, độc thân, thủ dâm, mộng tinh, phạm giới… Trong bối cảnh nghiên cứu hiện tại, chúng ta không phê phán công kích những người bất tuân thủ quy tắc độc thân, mà ca ngợi sự thành công trong tôn giáo, bàn về nếp sống lý tưởng giải thoát trong tu viện.

Lâu nay, nhiều người bối rối không biết thái độ của Phật giáo đối với tình dục như thế nào khi điểm thiết yếu trong đời sống tu viện là luôn đề cao kiềm chế tình dục. Đạo Phật không bao giờ tránh nè đề tài này, trong Luật tạng đức Phật quy chế giới điều như một hình thức đề cập đến “Đạo đức tình dục”. Chúng ta thảo luận đến chuyện sám hối tội ba-la-di chính là nói đến môn học “Đạo đức” này.

Trước hết chúng ta phải hiểu vì sao tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni quan hệ tình dục là phạm ba-la-di, bị ngăn cấm tuyệt đối. Vì người xuất gia được gọi là Phạm hạnh. Phạm hạnh (梵行, Skt. brahma-caryā, P. brahma-cariya), từ này là một khái niệm trong các tôn giáo Ấn-độ (Indian religions) có nghĩa đenduy trì hạnh kiểm bên trong Bản ngã của chính mình (own SelfĀtman) và Ấn-độ giáo (Hinduism), Phật giáo (Buddhism) và Kỳ-na giáo (Jainism)… thường nói đến nó là đề cập một lối sống đặc trưng bởi sự kiềm chế tình dục hoặc kiêng cử hoàn toàn.[1] Riêng đối với Phật giáo, ham muốn khoái cảm (pīti) tình dục sẽ làm trở ngại thiền định (jhāna), phương hại đến con đường tâm linh tiến tới giác ngộ, cũng là nguyên nhân tiềm ẩn dẫn dắt cho sự tái sanh tiếp diễn.

Vì sao đức Phật không cho sám hối?

Trong luật các bộ phái ghi chép rằng, nếu tỳ-kheo quan hệ với các đối tượng như sau sẽ phạm ba-la-di: người nữ, thiếu nữ chưa đủ tuổi thành niên (đồng nữ, Skt. kumārīdārikā), súc sinh cái, súc sanh đực, phi nhân (không phải người, chỉ các loại trời, thần và tương tự. Pāli: amanussa.) nữ và nam; đồng tính nam (gays), đồng tính nữ (lesbians), trong luật gọi là nhị hình, hai căn (Nhị hình 二形, nhị căn 二根. Pāli: ubhatovyañjana, hermaphrodite, intersex); người bị hoạn (eunuch), nam căn không hoàn chỉnh, bất lực (Huỳnh môn 黃門, Vô căn 無根, bất năng nam 不能男, bán-trạch-ca 半擇迦, Skt. paṇḍaka, kaṇḍāka). Và quan hệ qua ba đường: đường tiểu tiện, đại tiện và miệng đều phạm ba-la-di. Hoặc tỳ-kheo khỏa thân quan hệ với người nữ mặc y phục, ngược lại; hoặc tỳ-kheo hành dâm với người nữ mới chết, người nữ điên v.v… đều phạm ba-la-di.[2] Đặc biệt luật Tăng-kỳ (p. 238a16) còn cấm cả việc tỳ-kheo đi mua dâm.

Những hình thức phạm tội trên luật bộ phái trình bày rất chi tiết, và từ đây cho chúng ta thấy rằng, sau khi tỳ-kheo Sudinna phạm giới đầu tiên, các tỳ-kheo tiếp tục phạm giới, tìm mọi cách tránh né với điều lệ ban đầu Phật quy định để quan hệ, cho rằng làm như thế sẽ không phạm giới. Hoặc nói cách khác cũng do tâm sinh lý và nghiệp của chúng sanh đa dạng nên mới có nhiều hình thức phạm giới phức tạp, càng lúc càng nhiều.

Đến đây chúng ta có thể đưa ra kết luận vì sao đức Phật không cho sám hối:

  1. Mục đích của tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni khi xuất gia, thọ giới cụ túc, là phải tu tập thành tựu giải thoát ngay trong đời này, mà ngay trong đời hiện tại họ không kham nỗi, nghiệp chướng nặng nề, tiếp tục để họ ở trong đạo không có ích lợi gì, buộc cho họ về nhà gieo trồng phước thiện đời sống cư sĩ.
  2. Khi Phật chế giới nhắm đến 10 ý nghĩa, trong đó có hai điều: Một, để cho tín đồ chưa có niềm tin sinh tín tâm; hai, đã có tín tâm thì được tăng trưởng.[3] Cho nên đối với Tăng bảo là đoàn thể thanh tịnh, là nơi quy ngưỡng tâm linh cho các tín đồ, cũng là dấu hiệu “Chánh pháp cửu trụ thế gian”. Nếu tỳ-kheo có đời sống hoen ố sẽ làm lung lay niềm tin nơi tín đồ, lòng mộ đạo của họ tất sụp đổ, tác động xấu đến đoàn thể Tăng.

2. Tội không cho mà lấy:

Đây là tội phạm liên quan đến hình sự. Giới văn trong các bộ luật ghi chép tương tự như nhau:

“Tỳ-kheo nào, nơi thôn xóm hay chỗ trống vắng (ngoài thôn), với tâm trộm cắp, lấy vật không được cho, tùy theo vật không được cho mà lấy, hoặc bị vua hay đại thần của vua bắt, hoặc giết, hoặc trói, hoặc đuổi ra khỏi nước, nói rằng ‘Ngươi là giặc, ngươi ngu si, ngươi không biết gì’, thì tỳ-kheo ấy là kẻ ba-la-di, không được sống chung.”[4]

Luật Thập tụng có thêm “hoặc bị định tội phạt vàng”[5], các bộ khác giống nhau.

Luật Thập tụng (p. 4a26), Căn bản (p. 637a3) kể rằng, sau khi tỳ-kheo Dhaniya bị buộc tội lấy gỗ của triều đình, đức Phật bảo A-nan vào thành Vương xá, thủ phủ nước Magadha, hỏi những người hiểu luật pháp, xem lấy trộm bao nhiêu sẽ bị vua Ajātaśatru xử đại tội. Luật Tứ phần (p. 573b3), Ngũ phần (p. 6a3), Pāli (Vin. iii. 45): Đức Phật hỏi một tỳ-kheo nguyên là đại thần tư pháp. Luật Tăng-kỳ (p. 242c19), đức Phật hỏi trực tiếp vua Bimbisāra.

Tứ phần, Ngũ phần, Thập tụng đều ghi, theo luật hiện hành của nước Magadha lúc bấy giờ, nếu trộm tối thiểu từ 5 tiền (五錢) trở lên, phạm trọng tội, có thể bị tử hình. Luật Căn bản (p. 637a9) dịch là 5 ma-sái (五磨灑, P. pañca-māsaka). Luật Tăng-kỳ (p. 242c22) nói: Một kế-lị-sa-bàn (罽利沙槃, Skt. kārṣāpaṇa) bằng 19 tiền, nếu lấy trị giá bằng ¼ kế-lị-sa-bàn sẽ xử tội chết.

Kārṣāpaṇa, là loại tiền cổ Ấn-độ, có từ thế kỷ thứ 6 trước Tl., lưu hành thời vua Bimbisāra (khoảng năm 492- 460 trước Tl.) và Ajātaśatru (552-520 trước Tl.). Kārṣāpaṇa chỉ cho những đồng tiền vàng, bạc và đồng nặng 80 ratis hoặc 146,5 hạt (grains).[6] Còn từ māsaka (Skt. māṣaka) là tên hạt đậu nhỏ, những người thợ kim hoàn thời ấy dùng nó để cân trọng lượng và tính giá trị vàng, bạc; hoặc tên một loại tiền giá trị nhỏ, 80 kaparda = 1 māsaka; 20 māsaka = 1 kārṣāpaṇa; 5 māsaka cũng bằng ¼ của kārṣāpaṇa. Do đó, tuy các bộ luật biên tập lại có hơi khác nhưng định mức phạm tội với giá trị số tiền giống nhau.

Theo luật pháp của Việt Nam hiện nay, căn cứ điều 174 trong Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở mục 4: a). Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, và b) lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, sẽ bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, hoặc tù chung thân. Vậy luận tội tỳ-kheo theo luật Việt Nam nói riêng vào thời điểm hiện nay thì tỳ-kheo trộm cắp, lừa gạt, biển thủ… số tiền từ năm trăm triệu đồng trở lên là phạm ba-la-di.

Tội trạng này vào thời Phật và xã hội hiện tại không thể cho tỳ-kheo sám hối với lý do như sau:

Câu văn: Bị vua, hay đại thần của vua bắt, hoặc bị trói, bị giết, bị đuổi ra khỏi nước, hoặc bị định tội phạt vàng. Và tuyên bố“Ngươi là giặc, ngươi ngu si, ngươi không biết gì.” Đây là một kiểu tòa án đã tuyên án, dựa trên cơ sở chứng cứ với tội danh ăn trộm và căn cứ đánh giá tài sản bị thiệt hại, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội với xã hội, rồi đưa ra phán quyết hình sự: bị trói, bị giết, bị đuổi khỏi nước, bị phạt vàng.

Nếu xét trong thời Phật và xã hội đương thời, một khi tỳ-kheo bị bắt, giới thể tỳ-kheo ấy đã mất lại bị nhốt trong tù nữa, thì tu thế nào mà giải quyết sám hối. Trường hợp cụ thểViệt Nam, có một tỳ-kheo đã lừa gạt Phật tử lấy 68 tỷ đồng, trong năm 2020 thầy này bị trục xuất khỏi Tăng đoàn và bị chính quyền bắt cùng năm đó. Cho nên không có pháp sám hối dành cho tội trạng này. Có trường hợp ngoại lệ, nhiều tỳ-kheo lấy tiền của Tam bảo vượt “ngưỡng cửa” năm trăm triệu, bị phát hiện, nhà chùa giữ thể diện cho họ, âm thầm trục xuất ra khỏi chùa. Những vị này dù đi nơi khác tu tập, giới thể của tỳ-kheo cũng không còn.

Chúng tôi rộng bàn thêm về từ “bị giết”, các bản Hán khi truyền dịch hiểu nhầm chữ Phạn: Hanyāt, Pāli: Haneyyuṃ, có nghĩa là bị hành hạ, bị gây tổn hại, lại hiểu rằng: 5 tiền là mức giá trị để xử tử tội ăn trộmtỏ ra không thắc mắc gì khi dịch thành “bị giết, bị xử tử.”[7] Luật Pāli (Vin. 3. 47) định nghĩa như sau: “Bị hành hạ”, là họ có thể bị hành hạ bằng tay, hoặc bằng chân, hoặc bằng roi, hoặc bằng hèo, hoặc bằng gậy, hoặc tra khảo cho tàn phế (Haneyyuṃ vā ‘ti hatthena vā pādena vā kasāya vā vettena vā addhadaṇḍakena vā chejjāya vā haneyyuṃ).[8]

Do đó bản án xử tội trộm cắp ở mức độ nghiêm trọng nhất vẫn ở khung hình phạt chung thân. Chỉ ở Trung Quốc vào năm 2015, một người bị bắt với tội danh “đào bới các di tích văn hoá cổ và mộ cổ”, bị tuyên án tử hình mà thôi.[9]

(Còn tiếp)


Mùng 9 tháng 7 năm Nhâm dần

Cittacakkhu


[1] Cf. https://en.wikipedia.org/wiki/Brahmacharya.

[2] Thập tụng 1, p. 2c21. Ngũ phần 1, p. 5a1. Tứ phần 1, p. 571c10. Tăng-kỳ 1, p. 233c3…

[3] Ngũ phần p. 3c1; Tăng-kỳ p. 228c24; Tứ phần p. 570c3; Thập tụng p. 1c15; Pāli, Vin. iii. p. 32.

[4] Tứ phần p. 573b8; Ngũ phần p. 6a16; Thập tụng p. 4a29…

[5] Thập tụng (p. 4b2): Thâu kim tội 輸金罪.

[6] https://en.wikipedia.org/wiki/Karshapana.

[7] Cf. Tứ phần hiệp chú, HT. Trí Thủ & Tuệ Sỹ biên soạn: Ch. Ba-la-di, điều 2. Bất dữ thủ.

[8] Cf.《經分別》卷1, N01, no. 1, p. 61a4.

[9] https://cand.com.vn/Ho-so-interpol-cstc/An-tu-cho-vua-trom-mo-cua-Trung-Quoc.


Xem:
– Phần I
– Phần II

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3413)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4093)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3862)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2806)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3283)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3416)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4467)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3793)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4666)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 3940)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 2937)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3697)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3826)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 2991)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3542)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4382)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3649)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2166)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2542)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 2961)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2646)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4533)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4861)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2776)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5127)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2782)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3195)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4310)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4853)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4599)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3160)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4486)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4211)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6069)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3454)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 3952)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 5935)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5345)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 3964)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 32563)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3116)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4084)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4670)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 2998)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3738)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3472)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6470)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2716)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3174)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4471)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3368)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7219)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4409)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4457)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7123)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2890)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12002)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3884)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3708)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4035)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant