Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (III)

30 Tháng Tám 202212:29(Xem: 1351)
Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (III)
Bhikkhu Cittacakkhu: Phạm trọng tội ba-la-di và ý nghĩa sám hối (III)

Poster_Talkshow_09


TỘI BA-LA-DI KHÔNG THỂ SÁM HỐI THỜI PHẬT
VÀ BỐI CẢNH XÃ HỘI ĐƯƠNG THỜI

Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.

1. Tội dâm – nhận định trong thời Phật và liên hệ đến cuộc sống hiện tại:

Từ ngàn xưa cho đến nay, tình dục của con người có lẽ là một trở ngại lớn nhất đối với những ai đã lựa chọn con đường tâm linh tôn giáo. Trong Phật giáo, những tu nữ, hay tu nam nếu chưa chế ngự được nó vẫn là nỗi ám ảnh thường trực giữa ranh giới thanh tịnh, trinh khiết, độc thân, thủ dâm, mộng tinh, phạm giới… Trong bối cảnh nghiên cứu hiện tại, chúng ta không phê phán công kích những người bất tuân thủ quy tắc độc thân, mà ca ngợi sự thành công trong tôn giáo, bàn về nếp sống lý tưởng giải thoát trong tu viện.

Lâu nay, nhiều người bối rối không biết thái độ của Phật giáo đối với tình dục như thế nào khi điểm thiết yếu trong đời sống tu viện là luôn đề cao kiềm chế tình dục. Đạo Phật không bao giờ tránh nè đề tài này, trong Luật tạng đức Phật quy chế giới điều như một hình thức đề cập đến “Đạo đức tình dục”. Chúng ta thảo luận đến chuyện sám hối tội ba-la-di chính là nói đến môn học “Đạo đức” này.

Trước hết chúng ta phải hiểu vì sao tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni quan hệ tình dục là phạm ba-la-di, bị ngăn cấm tuyệt đối. Vì người xuất gia được gọi là Phạm hạnh. Phạm hạnh (梵行, Skt. brahma-caryā, P. brahma-cariya), từ này là một khái niệm trong các tôn giáo Ấn-độ (Indian religions) có nghĩa đenduy trì hạnh kiểm bên trong Bản ngã của chính mình (own SelfĀtman) và Ấn-độ giáo (Hinduism), Phật giáo (Buddhism) và Kỳ-na giáo (Jainism)… thường nói đến nó là đề cập một lối sống đặc trưng bởi sự kiềm chế tình dục hoặc kiêng cử hoàn toàn.[1] Riêng đối với Phật giáo, ham muốn khoái cảm (pīti) tình dục sẽ làm trở ngại thiền định (jhāna), phương hại đến con đường tâm linh tiến tới giác ngộ, cũng là nguyên nhân tiềm ẩn dẫn dắt cho sự tái sanh tiếp diễn.

Vì sao đức Phật không cho sám hối?

Trong luật các bộ phái ghi chép rằng, nếu tỳ-kheo quan hệ với các đối tượng như sau sẽ phạm ba-la-di: người nữ, thiếu nữ chưa đủ tuổi thành niên (đồng nữ, Skt. kumārīdārikā), súc sinh cái, súc sanh đực, phi nhân (không phải người, chỉ các loại trời, thần và tương tự. Pāli: amanussa.) nữ và nam; đồng tính nam (gays), đồng tính nữ (lesbians), trong luật gọi là nhị hình, hai căn (Nhị hình 二形, nhị căn 二根. Pāli: ubhatovyañjana, hermaphrodite, intersex); người bị hoạn (eunuch), nam căn không hoàn chỉnh, bất lực (Huỳnh môn 黃門, Vô căn 無根, bất năng nam 不能男, bán-trạch-ca 半擇迦, Skt. paṇḍaka, kaṇḍāka). Và quan hệ qua ba đường: đường tiểu tiện, đại tiện và miệng đều phạm ba-la-di. Hoặc tỳ-kheo khỏa thân quan hệ với người nữ mặc y phục, ngược lại; hoặc tỳ-kheo hành dâm với người nữ mới chết, người nữ điên v.v… đều phạm ba-la-di.[2] Đặc biệt luật Tăng-kỳ (p. 238a16) còn cấm cả việc tỳ-kheo đi mua dâm.

Những hình thức phạm tội trên luật bộ phái trình bày rất chi tiết, và từ đây cho chúng ta thấy rằng, sau khi tỳ-kheo Sudinna phạm giới đầu tiên, các tỳ-kheo tiếp tục phạm giới, tìm mọi cách tránh né với điều lệ ban đầu Phật quy định để quan hệ, cho rằng làm như thế sẽ không phạm giới. Hoặc nói cách khác cũng do tâm sinh lý và nghiệp của chúng sanh đa dạng nên mới có nhiều hình thức phạm giới phức tạp, càng lúc càng nhiều.

Đến đây chúng ta có thể đưa ra kết luận vì sao đức Phật không cho sám hối:

  1. Mục đích của tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni khi xuất gia, thọ giới cụ túc, là phải tu tập thành tựu giải thoát ngay trong đời này, mà ngay trong đời hiện tại họ không kham nỗi, nghiệp chướng nặng nề, tiếp tục để họ ở trong đạo không có ích lợi gì, buộc cho họ về nhà gieo trồng phước thiện đời sống cư sĩ.
  2. Khi Phật chế giới nhắm đến 10 ý nghĩa, trong đó có hai điều: Một, để cho tín đồ chưa có niềm tin sinh tín tâm; hai, đã có tín tâm thì được tăng trưởng.[3] Cho nên đối với Tăng bảo là đoàn thể thanh tịnh, là nơi quy ngưỡng tâm linh cho các tín đồ, cũng là dấu hiệu “Chánh pháp cửu trụ thế gian”. Nếu tỳ-kheo có đời sống hoen ố sẽ làm lung lay niềm tin nơi tín đồ, lòng mộ đạo của họ tất sụp đổ, tác động xấu đến đoàn thể Tăng.

2. Tội không cho mà lấy:

Đây là tội phạm liên quan đến hình sự. Giới văn trong các bộ luật ghi chép tương tự như nhau:

“Tỳ-kheo nào, nơi thôn xóm hay chỗ trống vắng (ngoài thôn), với tâm trộm cắp, lấy vật không được cho, tùy theo vật không được cho mà lấy, hoặc bị vua hay đại thần của vua bắt, hoặc giết, hoặc trói, hoặc đuổi ra khỏi nước, nói rằng ‘Ngươi là giặc, ngươi ngu si, ngươi không biết gì’, thì tỳ-kheo ấy là kẻ ba-la-di, không được sống chung.”[4]

Luật Thập tụng có thêm “hoặc bị định tội phạt vàng”[5], các bộ khác giống nhau.

Luật Thập tụng (p. 4a26), Căn bản (p. 637a3) kể rằng, sau khi tỳ-kheo Dhaniya bị buộc tội lấy gỗ của triều đình, đức Phật bảo A-nan vào thành Vương xá, thủ phủ nước Magadha, hỏi những người hiểu luật pháp, xem lấy trộm bao nhiêu sẽ bị vua Ajātaśatru xử đại tội. Luật Tứ phần (p. 573b3), Ngũ phần (p. 6a3), Pāli (Vin. iii. 45): Đức Phật hỏi một tỳ-kheo nguyên là đại thần tư pháp. Luật Tăng-kỳ (p. 242c19), đức Phật hỏi trực tiếp vua Bimbisāra.

Tứ phần, Ngũ phần, Thập tụng đều ghi, theo luật hiện hành của nước Magadha lúc bấy giờ, nếu trộm tối thiểu từ 5 tiền (五錢) trở lên, phạm trọng tội, có thể bị tử hình. Luật Căn bản (p. 637a9) dịch là 5 ma-sái (五磨灑, P. pañca-māsaka). Luật Tăng-kỳ (p. 242c22) nói: Một kế-lị-sa-bàn (罽利沙槃, Skt. kārṣāpaṇa) bằng 19 tiền, nếu lấy trị giá bằng ¼ kế-lị-sa-bàn sẽ xử tội chết.

Kārṣāpaṇa, là loại tiền cổ Ấn-độ, có từ thế kỷ thứ 6 trước Tl., lưu hành thời vua Bimbisāra (khoảng năm 492- 460 trước Tl.) và Ajātaśatru (552-520 trước Tl.). Kārṣāpaṇa chỉ cho những đồng tiền vàng, bạc và đồng nặng 80 ratis hoặc 146,5 hạt (grains).[6] Còn từ māsaka (Skt. māṣaka) là tên hạt đậu nhỏ, những người thợ kim hoàn thời ấy dùng nó để cân trọng lượng và tính giá trị vàng, bạc; hoặc tên một loại tiền giá trị nhỏ, 80 kaparda = 1 māsaka; 20 māsaka = 1 kārṣāpaṇa; 5 māsaka cũng bằng ¼ của kārṣāpaṇa. Do đó, tuy các bộ luật biên tập lại có hơi khác nhưng định mức phạm tội với giá trị số tiền giống nhau.

Theo luật pháp của Việt Nam hiện nay, căn cứ điều 174 trong Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở mục 4: a). Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, và b) lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, sẽ bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, hoặc tù chung thân. Vậy luận tội tỳ-kheo theo luật Việt Nam nói riêng vào thời điểm hiện nay thì tỳ-kheo trộm cắp, lừa gạt, biển thủ… số tiền từ năm trăm triệu đồng trở lên là phạm ba-la-di.

Tội trạng này vào thời Phật và xã hội hiện tại không thể cho tỳ-kheo sám hối với lý do như sau:

Câu văn: Bị vua, hay đại thần của vua bắt, hoặc bị trói, bị giết, bị đuổi ra khỏi nước, hoặc bị định tội phạt vàng. Và tuyên bố“Ngươi là giặc, ngươi ngu si, ngươi không biết gì.” Đây là một kiểu tòa án đã tuyên án, dựa trên cơ sở chứng cứ với tội danh ăn trộm và căn cứ đánh giá tài sản bị thiệt hại, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội với xã hội, rồi đưa ra phán quyết hình sự: bị trói, bị giết, bị đuổi khỏi nước, bị phạt vàng.

Nếu xét trong thời Phật và xã hội đương thời, một khi tỳ-kheo bị bắt, giới thể tỳ-kheo ấy đã mất lại bị nhốt trong tù nữa, thì tu thế nào mà giải quyết sám hối. Trường hợp cụ thểViệt Nam, có một tỳ-kheo đã lừa gạt Phật tử lấy 68 tỷ đồng, trong năm 2020 thầy này bị trục xuất khỏi Tăng đoàn và bị chính quyền bắt cùng năm đó. Cho nên không có pháp sám hối dành cho tội trạng này. Có trường hợp ngoại lệ, nhiều tỳ-kheo lấy tiền của Tam bảo vượt “ngưỡng cửa” năm trăm triệu, bị phát hiện, nhà chùa giữ thể diện cho họ, âm thầm trục xuất ra khỏi chùa. Những vị này dù đi nơi khác tu tập, giới thể của tỳ-kheo cũng không còn.

Chúng tôi rộng bàn thêm về từ “bị giết”, các bản Hán khi truyền dịch hiểu nhầm chữ Phạn: Hanyāt, Pāli: Haneyyuṃ, có nghĩa là bị hành hạ, bị gây tổn hại, lại hiểu rằng: 5 tiền là mức giá trị để xử tử tội ăn trộmtỏ ra không thắc mắc gì khi dịch thành “bị giết, bị xử tử.”[7] Luật Pāli (Vin. 3. 47) định nghĩa như sau: “Bị hành hạ”, là họ có thể bị hành hạ bằng tay, hoặc bằng chân, hoặc bằng roi, hoặc bằng hèo, hoặc bằng gậy, hoặc tra khảo cho tàn phế (Haneyyuṃ vā ‘ti hatthena vā pādena vā kasāya vā vettena vā addhadaṇḍakena vā chejjāya vā haneyyuṃ).[8]

Do đó bản án xử tội trộm cắp ở mức độ nghiêm trọng nhất vẫn ở khung hình phạt chung thân. Chỉ ở Trung Quốc vào năm 2015, một người bị bắt với tội danh “đào bới các di tích văn hoá cổ và mộ cổ”, bị tuyên án tử hình mà thôi.[9]

(Còn tiếp)


Mùng 9 tháng 7 năm Nhâm dần

Cittacakkhu


[1] Cf. https://en.wikipedia.org/wiki/Brahmacharya.

[2] Thập tụng 1, p. 2c21. Ngũ phần 1, p. 5a1. Tứ phần 1, p. 571c10. Tăng-kỳ 1, p. 233c3…

[3] Ngũ phần p. 3c1; Tăng-kỳ p. 228c24; Tứ phần p. 570c3; Thập tụng p. 1c15; Pāli, Vin. iii. p. 32.

[4] Tứ phần p. 573b8; Ngũ phần p. 6a16; Thập tụng p. 4a29…

[5] Thập tụng (p. 4b2): Thâu kim tội 輸金罪.

[6] https://en.wikipedia.org/wiki/Karshapana.

[7] Cf. Tứ phần hiệp chú, HT. Trí Thủ & Tuệ Sỹ biên soạn: Ch. Ba-la-di, điều 2. Bất dữ thủ.

[8] Cf.《經分別》卷1, N01, no. 1, p. 61a4.

[9] https://cand.com.vn/Ho-so-interpol-cstc/An-tu-cho-vua-trom-mo-cua-Trung-Quoc.


Xem:
– Phần I
– Phần II

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6120)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3028)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3090)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3290)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3223)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3287)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4538)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2714)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5191)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3827)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3820)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3192)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4114)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5029)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3505)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6725)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3948)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3212)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3087)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2951)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5834)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4607)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3475)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2886)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3301)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4409)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5703)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6608)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3684)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4516)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4589)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3950)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3377)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4597)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6016)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5810)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3614)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4669)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4444)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4513)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4253)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4578)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8176)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3902)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5706)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5178)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6797)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6154)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 5973)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5785)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6264)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6766)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4951)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5547)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6369)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3771)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5387)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10439)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 6054)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9300)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant