Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Vài Nét Về Khái Niệm Tự LựcTha Lực Trong Phật Giáo

26 Tháng Chín 202208:51(Xem: 1701)
Vài Nét Về Khái Niệm Tự Lực Và Tha Lực Trong Phật Giáo
Vài Nét Về Khái Niệm Tự LựcTha Lực Trong Phật Giáo

Thích Thiện Đức


Phước Lạc Thay Sự Xuất Hiện Của Chư Phật

Tự lực và tha lực tuy là hai khái niệm khác nhau nhưng không đối nghịch nhau, và hai yếu tố này không thể thiếu trong tiến trình tu tập của một người con Phật.

Khái niệm tự lực và tha lực

Tự lực là chỉ cho sự nỗ lực của chính bản thân mình nhằm đạt được mục đích hay điều gì đó. Ví dụ trong học tập, nếu ta cố gắng chăm chỉ thì có thể đạt được thành tích tốt trong thi cử. Tha lực là chỉ cho sự tác động của yếu tố bên ngoài đến tự thân, và tùy theo mức độ của sự tác động mà bản thân ta chịu sự ảnh hưởng nặng hay nhẹ. Ví dụ nếu ở trong một môi trường giáo dục tốt thì tri thức, nhân cách đạo đức… của chúng ta dễ phát triển theo chiều hướng tích cực.

Trong Phật giáotự lực và tha lực thường được nhắc đến. Thoạt đầu ta cứ nghĩ đây là hai khái niệm hoàn toàn đối lập và không liên quan gì với nhau, nhưng sự thật chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.

Phật giáo Nguyên thủy đề cao vai trò tự lực

Trong Phật giáo Nguyên thủytinh thần tự lực được thể hiện qua câu “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”. Lời dạy này nhằm khuyến khích hàng đệ tử phải nỗ lực tu tập, tự chuyển hóa chính mình, nương theo Chánh pháp để đạt giải thoát“Vậy này Ᾱnanda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một điều gì khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một điều gì khác”(1). Lời di huấn này của Đức Thế Tôn khẳng định tinh thần tự nỗ lực và tự giác ngộ. Hàng đệ tử Phật cần phải tự mình soi sáng cho chính mình bằng cách nương tựa Chánh pháp. Chỉ bằng việc dùng Chánh pháp để tu tập mới có thể đạt được tuệ giác, thấy được nguyên nhân của khổ đau, đó là do nghiệp: “Này các Tỷ-kheo, các chúng sinh là chủ của nghiệp, là những kẻ thừa tự của nghiệp, là sinh căn của nghiệp, là bà con của nghiệp, là chỗ nương tựa của nghiệp. Phàm làm nghiệp gì, thiện hay ác, họ là những kẻ thừa tự của nghiệp ấy”(2).

Tự lực và tha lực trong Phật giáo Đại thừa

Nếu Phật giáo Nguyên thủy đề cao tinh thần tự lực thì đến giai đoạn Phật giáo Đại thừa lại xuất hiện thêm yếu tố tha lực, tức phải nhờ sức mạnh bên ngoài trợ duyên mới có thể đạt được giải thoátTịnh Độ tông(3) là tông phái nhấn mạnh tinh thần tha lực, tức nương tựa vào hạnh nguyện độ sinh của Đức Phật A Di Đà để được vãng sinh về quốc độ của Ngài. Trong kinh A Di ĐàĐức Phật dạy:

“Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tửthiện nữ nhân nào nghe nói đến Đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của Đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một lòng không tạp loạn. Thời người đó đến lúc lâm chungĐức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh chúng hiện thân ở trước người đó. Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực lạc của Đức Phật A Di Đà”(4).

Theo Tịnh Độ tông, một người cho dù thiện hay ác, tốt hay xấu, nếu đặt niềm tin tuyệt đối và hết lòng trì niệm danh hiệu của Đức Phật A Di Đà thì có thể sinh về thế giới Cực lạc. Trong kinh Diệu pháp liên hoa, phẩm Phổ mônyếu tố tha lực cũng được nói đến:

“Phật bảo ngài Vô Tận Ý Bồ-tát. Thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sinh chịu các sự khổ não, nghe Quán Thế Âm Bồ-tát này một lòng xưng danhQuán Thế Âm Bồ-tát tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát”(5).

Tương tự như vậy, những bản kinh Đại thừa khác như kinh Dược Sư (Mười hai lời nguyện của Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương), kinh Địa Tạng (Nguyện lực cứu khổ địa ngục của Địa Tạng Vương Bồ-tát), kinh Phổ Hiền hạnh nguyện (Mười hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ-tát) v.v... cũng đề cập đến yếu tố tha lực.

Dung hòa yếu tố tự lực và tha lực

Về mặt tu tập giải thoátPhật giáo Nguyên thủy nhấn mạnh yếu tố tự lực, còn Phật giáo Đại thừa bổ sung thêm yếu tố tha lựcTuy nhiên nếu cho rằng Phật giáo Nguyên thủy chỉ dựa vào tự lực để đạt giải thoát còn Phật giáo Đại thừa dựa nhiều vào tha lực thì điều này có thể không chính xácChúng ta biết rằng, nếu không có bậc Đạo Sư chỉ dạy thì chúng ta không thể có được phương pháp tu tập đúng đắn. Và việc nương tựa vào những lời dạy của Đức Phật có thể được xem là một hình thức của nương tựa vào tha lực. Hẳn nhiên ở đây việc nương tựa vào lời dạy của Đức Phật chỉ là phương tiện, còn việc đạt được giải thoát hay không là do sự tu tập của mỗi người.

Cũng vậy, nếu xem việc đạt được giải thoát trong Tịnh Độ tông là hoàn toàn dựa vào tha lực thì cũng là sai lầm. Trong kinh A Di Đà có nói rằng, nếu chúng sinh nào có lòng lành, nghe đến danh hiệu và hết lòng thọ trì danh hiệu Ngài từ một ngày đến bảy ngày thì khi mạng chung sẽ được Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn về thế giới Cực lạc. Ở đây ta thấy để vãng sinh về thế giới Cực lạc, một người phải cần đến cả yếu tố tự lực và tha lựcBản nguyện độ tất cả chúng sinh của Phật đó là tha lực, nhưng chúng sinh đó muốn được sinh về cõi Tịnh độ thì trước tiên phải có đầy đủ thiện căn(6) và hết lòng trì niệm danh hiệu Phật đến “nhất tâm bất loạn”.

Tinh thần này cũng được thể hiện nơi hạnh nguyện đại bi cứu khổ của Bồ-tát Quán Thế Âm. Nếu có vô lượng chúng sinh chịu trăm điều khổ não nghe được danh hiệu Quán Thế Âm và hết lòng trì niệm danh hiệu thì Ngài sẽ quán sát âm thanh đó, liền đến cứu khổ khiến cho họ được an lạcgiải thoátTha lực là đại nguyện của Bồ-tát còn tự lực là sự “nhất tâm xưng danh” của chúng sinh, tức tha lực chỉ phát sinh khi có yếu tố tự lực.

Trong Phật giáo Đại thừa, có một số tông phái chú trọng vào tự lực, chẳng hạn như Thiền tông. Về mặt này, Thiền tông và Phật giáo Nguyên thủy khá giống nhau, tức không ỷ lại vào yếu tố bên ngoài mà dựa vào nỗ lực tu tập của chính bản thân để được chứng ngộ.

Nếu Đức Phật là bậc Đạo Sư tự tìm thấy con đường giải thoát và tự giác ngộ cho mình: “Như Lai, Ứng cúngĐẳng Chánh giác chưa từng nghe pháp nhưng có thể tự mình giác ngộ Pháp, tự thông đạt Vô thượng Bồ-đề, rồi để giác ngộ cho hàng Thanh văn trong đời vị lai mà thuyết pháp”(7), thì còn lại tất cả chúng ta đều phải nhờ vào yếu tố tha lực trong bước đường tu tập, như phải nương vào Phật pháp, vào thầy tổ, bằng hữu v.v... Những điều đó còn được gọi là yếu tố trợ duyên. Sự tu tập cũng như đời sống hàng ngày của chúng ta đều không ra ngoài quy luật nhân duyên, đều có sự ảnh hưởng và chi phối lẫn nhau. Cho nên việc tự nỗ lực tu tập có khi chưa đủ mà còn phải cần đến những nhân duyên hỗ trợ mới có thể đạt được mục đích.

Như vậy, tự lực và tha lực tuy là hai khái niệm khác nhau nhưng không đối nghịch nhau, và hai yếu tố này không thể thiếu trong tiến trình tu tập của một người con Phật. Dù cho đặt nặng yếu tố nỗ lực tự thân thì trong bước đường tu tập ta không hẳn hoàn toàn không nương vào tha lực. Còn nếu chỉ dựa dẫm vào tha lực mà không chịu tu tập thì đó là mê tíntà kiến, không đúng với tinh thần Phật pháp.


Thích Thiện Đức

___________________________________________

(1) Kinh Tương ưng bộ, tập V, chương III, phẩm Ambapāli, Thích Minh Châu (dịch), NXB.Tôn Giáo, Hà Nội, tr.567.

(2) Kinh Tăng chi bộ, tập II, chương Mười, phẩm Thân do nghiệp sinh, Thích Minh Châu (dịch), NXB.Tôn Giáo, Hà Nội, tr.730.

(3) Tham khảo thêm Tinh hoa triết học Phật giáo (2019), Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ (dịch và chú), NXB.Hồng Đức, Hà Nội, tr.253-266.

(4) Thích Trí Tịnh (2012), kinh Nhựt tụng, kinh A Di Đà, NXB.Tôn Giáo, Hà Nội, tr.60.

(5) Thích Trí Tịnh (dịch) (2011), kinh Diệu pháp liên hoaNxb.Tôn Giáo, Hà Nội, tr.244.

(6) Tức không tham, không sân, không si.

(7) Tiểu tạng kinh (2019), Tạp A-hàm, cuốn I, kinh 66 Quán, Thích Đức Thắng (dịch), Tuệ Sỹ (hiệu chỉnh và chú thích), NXB.Hồng Đức, Hà Nội, tr.145.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (2018), kinh Tương ưng bộ, tập II, Thích Minh Châu (dịch), NXB.Tôn Giáo, Hà Nội.

Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam (2018), kinh Tăng chi bộ, tập II, Thích Minh Châu (dịch), NXB.Tôn Giáo, Hà Nội.

Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam (2018), kinh Tiểu bộ, tập I, Thích Minh Châu (dịch), NXB.Tôn Giáo, Hà Nội.

Thích Minh Châu (dịch) (2016), Kinh Pháp cú, Phẩm Phật-đà, kệ 183, NXB.Phương Đông, Hồ Chí Minh.

Tiểu Tạng Kinh (2019), Tạp A-hàm, cuốn I, Thích Đức Thắng (dịch), Tuệ Sỹ (hiệu chỉnh và chú thích), NXB.Hồng Đức, Hà Nội.

Tiểu tạng kinh (2019), Trung A-hàm, cuốn I, phẩm 2, kinh Tư, Tuệ Sỹ (dịch và chú), NXB.Hồng Đức, Hà Nội.

Thích Trí Tịnh (dịch) (2012), kinh Nhật tụng, kinh A Di Đà, NXB.Tôn Giáo, Hà Nội.

Thích Trí Tịnh (dịch) (2011), kinh Diệu pháp liên hoa, NXB.Tôn Giáo, Hà Nội.

Kimura Taiken (2012), Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận, Thích Quảng Độ (dịch), NXB.Tôn Giáo, Hà Nội.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4368)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4660)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4702)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5860)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3299)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5259)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2932)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4135)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5283)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4262)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3322)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6359)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5329)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4625)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6238)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6107)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3892)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6034)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4643)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4793)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3387)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6275)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 4943)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3544)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3474)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5670)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4243)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 5991)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5237)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3670)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3757)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3706)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3530)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5363)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 4011)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4360)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5824)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3128)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3068)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3859)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4856)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3571)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3046)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4571)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4720)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3436)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 3993)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4726)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3568)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3604)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5136)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4158)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3292)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 2996)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3039)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3112)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3108)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3474)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 4003)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
(Xem: 5178)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant