Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

HT Thích Đức Thắng: Bồ-tát

13 Tháng Mười 202210:10(Xem: 1224)
HT Thích Đức Thắng: Bồ-tát
HT Thích Đức Thắng: Bồ-tát

bo-tat-780x470

Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… là chỉ cho những bậc cầu đạo, cầu đại giác, bậc có tâm lớn cầu đạoBodhi (Bồ-đề), có nghĩa là giác (giác ngộ), là trí (trí tuệ), là đạo. Sattva (tát-đỏa), có nghĩa là chỉ cho chúng sanh, hữu tình. Vậy nguyên ngữ Bodhi-sattva có nghĩa là giác ngộ chúng sanh, hay giác ngộ hữu tình, tức là Bồ-tát trong hiện tại, trên dùng trí cầu Bồ-đề vô thượng; dưới dùng bi hóa độ chúng sanh, hữu tình, tu tập thực hành các ba-la-mật, lợi mình, lợi người, hai hạnh viên mãn; trong tương lai, các Ngài sẽ thành tựu quả vị Phật. Bồ-tát cùng Thinh văn và Duyên giác gọi chung là ba thừa. Bồ-tát là cõi thứ chín trong mười cõi (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, A-tu-la, Nhơn gian, Thiên thượng, Thinh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Phật giới). Đối với các hàng Thinh văn, Duyên giác mà cầu Bồ-đề thì các Ngài cũng được gọi là Bồ-tát; đặc biệt các vị Đại thừa tu hành chỉ cầu vô thượng Bồ-đề thì gọi là Ma-ha Tát-đỏa, phiên âm của maha-sattva tiếng Phạn, hay còn gọi là Ma-ha-tát, Bồ-tát Ma-ha-tát, Bồ-đề Tát-đỏa Ma-ha Tát-đỏa hay là Ma-ha Bồ-đề Chất-đế Tát-đỏa…

Về danh hiệu thì có hai loại danh hiệu chung và riêng:


1. Danh hiệu xưng chung cho Bồ-tát, theo kinh điển thì có nhiều tên khác nhau, tùy thuộc vào ý nghĩa tán thán tôn kính đối với các hạnh Bồ-tát như: Khai sĩ (Bồ-đề Tát-đỏa), Đại sĩ (Ma-ha Tát-đỏa), Tôn nhơn (đệ nhất Tát-đỏa), Thánh sĩ (Tắng Tát-đỏa), Siêu sĩ (Tối thắng Tát-đỏa) Thượng nhơn (Thượng Tát-đỏa) Vô thượng (Vô thượng Tát-đỏa), Lực sĩ (Lực Tát-đỏa), Vô song (Vô đẳng Bồ-tát) Vô tư nghì (Bất tư nghì Tát-đỏa), Phật tử, Phật trì, Đại sư, Đại thánh, Đại công đức, Đại tự tại, Chánh sĩ, Thỉ sĩ, Cao sĩ, Đại đạo tâm thành chúng sanh, Pháp thần, Pháp vương tử, Thắng sanh tử, Quảng đại Tát-đỏa, Cực diệu Tát-đỏa, Thắng xuất nhất thiết tam giới Tát-đỏa, Thân nghiệp vô thất Ngữ nghiệp vô thất Ý nghiệp vô thất, Thân nghiệp thanh tịnh Ngữ nghiệp thanh tịnh Ý nghiệp thanh tịnh, Thân nghiệp vô động Ngữ nghiệp vô động Ý nghiệp vô động, Thành tựu Giác tuệ, Tối thượng chiếu minh (uttama-dyuti), Tối thắng chơn tử (jina-putra), Tối thắng nhậm trì (jinàdhàra), Phổ năng hàng phục, Tối thắng manh nha, Dũng kiện (vikrànta), Tối thánh (pramàsucarya), Thương chủ (sàrthavàha), Đại danh xưng (mahà-yasuas), Lân mẫn, Đại phước, Tự tại, Pháp sư (dharmika).

 

2. Danh hiệu riêng có được là nhờ vào phát tâm Bồ-đề rộng lớn và công hạnh tu hành trải qua nhiều đời nhiều kiếp đã thành tựu, lấy đó mà làm danh hiệu riêng để gọi như chúng ta thường đọc tụng trong các kinh điển Đại thừa; đặc biệt là phần mở đầu của các bản kinh, trong phần “chúng thành tựu” thứ sáu, trong sáu cách thành tựu một bản kinh do Phật nói ra trong các bản kinh ngoài tứ chúng đệ tử thường xuyên có mặt, đôi khi nếu đề tài nào liên quan đến các hàng Bồ-tát thì luôn luôn hiện hữu sự có mặt của các hàng Bồ-tát câu hội với năm trăm đại Bồ-tát, Phổ Hiền Bồ-tát và Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát lúc nào cũng làm thượng thủ. Tên của các Ngài là:

Quang Diệm Tràng Bồ-tát, Tu Di Tràng Bồ-tát, Bửu Tràng Bồ-tát, Vô Ngại Tràng Bồ-tát, Hoa Tràng Bồ-tát, Ly Cấu Tràng Bồ-tát, Nhựt Tràng Bồ-tát, Diệu Tràng Bồ-tát, Ly Trần Tràng Bồ-tát, Phổ Quang Tràng Bồ-tát, Địa Oai Lực Bồ-tát, Bửu Oai Lực Bồ-tát, Kim Cang Trí Oai Lực Bồ-tát, Ly Trần Cấu Oai Lực Bồ-tát, Chánh Pháp Nhựt Oai Lực Bồ-tát, Công Đức Sơn Oai Lực Bồ-tát, Trí Quang Ảnh Oai Lực Bồ-tát, Phổ Kiết Tường Oai Lực Bồ-tát, Địa Tạng Bồ-tát, Hư Không Tạng Bồ-tát, Liên Hoa Tạng Bồ-tát, Tịnh Đức Tạng Bồ-tát, Pháp Ấn Bồ-tát, Quang Minh Tạng Bồ-tát, Tê Tạng Bồ-tát, Liên Hoa Đức Tạng Bồ-tát, Thiện Nhãn Bồ-tát, Tịnh Nhãn Bồ-tát, Ly Cấu Nhãn Bồ-tát, Vô Ngại Nhãn Bồ-tát, Phổ Hiền Nhãn Bồ-tát, Phổ Quán Nhãn Bồ-tát, Thanh Liên Hoa Nhãn Bồ-tát, Kim Cang Nhãn Bồ-tát, Bửu Nhãn Bồ-tát, Hư Không Nhãn Bồ-tát, Hỉ Nhãn Bồ-tát, Phổ Nhãn Bồ-tát, Thiên Quan Bồ-tát, Phổ Chiếu Pháp Giới Trí Huệ Quan Bồ-tát, Đạo Tràng Quan Bồ-tát, Phổ Chiếu Thập Phương Quan Bồ-tát, Nhứt Thiết Phật Tạng Quan Bồ-tát, Siêu Xuất Nhứt Thiết Thế Gian Quan Bồ-tát, Phổ Chiếu Quan Bồ-tát, Bất Khả Hoại Quan Bồ-tát, Trì Nhứt Thiết Như Lai Sư Tử Tòa Quan Bồ-tát, Phổ Chiếu Pháp Giới Hư Không Quan Bồ-tát, Phạm Vương Kế Bồ-tát, Long Vương Kế Bồ-tát, Nhứt Thiết Hóa Phật Quang Minh Kế Bồ-tát, Đạo Tràng Kế Bồ-tát, Nhứt Thiết Nguyện Hải Âm Bửu Vương Kế Bồ-tát, Nhứt Thiết Phật Quang Minh Ma Ni Kế Bồ-tát, Thị Hiện Nhứt Thiết Hư Không Bình Đẳng Tướng Ma Ni Vương Trang Nghiêm Kế Bồ-tát, Thị Hiện Nhứt Thiết Như Lai Thần Biến Ma Ni Vương Tràng Võng Thùy Phúc Kế Bồ-tát, Xuất Nhứt Thiết Phật Chuyển Pháp Luân Âm Kế Bồ-tát, Thuyết Tam Thế Nhứt Thiết Danh Tự Âm Kế Bồ-tát, Đại Quang Bồ-tát, Ly Cấu Quang Bồ-tát, Diệm Quang Bồ-tát, Pháp Quang Bồ-tát, Tịch Tịnh Quang Bồ-tát, Nhựt Quang Bồ-tát, Tự Tại Quang Bồ-tát, Thiên Quang Bồ-tát, Phước Đức Tràng Bồ-tát, Trí Huệ Tràng Bồ-tát, Thần Thông Bồ-tát, Quang Tràng Bồ-tát, Hoa Tràng Bồ-tát, Ma Ni Tràng Bồ-tát, Bồ Đề Tràng Bồ-tát, Phạm Tràng Bồ-tát, Phổ Quang tràng Bồ-tát, Phạm Âm Bồ-tát, Hải Âm Bồ-tát, Đại Địa Âm Bồ-tát, Thế Chủ Âm Bồ-tát, Sơn Tướng Kích Âm Bồ-tát, Biến Nhứt Thiết Pháp Giới Âm Bồ-tát, Chấn Nhứt Thiết Pháp Hải Lôi Âm Bồ-tát, Hàng Ma Âm Bồ-tát, Đại Bi Phương Tiện Vân Lôi Âm Bồ-tát, Tức Nhứt Thiết Thế Gian Khổ An Uỷ Âm Bồ-tát, Pháp Thượng Bồ-tát, Thắng Thượng Bồ-tát, Trí Thượng Bồ-tát, Phước Đức Tu Di Thượng Bồ-tát, Công Đức San Hô Thượng Bồ-tát, Danh Xưng Thượng Bồ-tát, Phổ Quang Thượng Bồ-tát, Trí Hải Thượng Bồ-tát, Phật Chủng Thượng Bồ-tát, Quang Thắng Bồ-tát, Đức Thắng Bồ-tát, Thượng Thắng Bồ-tát, Phổ Minh Thắng Bồ-tát, Pháp Thắng Bồ-tát, Nguyệt Thắng Bồ-tát, Hư Không Thắng Bồ-tát, Bửu Thắng Bồ-tát, Tràng Thắng Bồ-tát, Trí Thắng Bồ-tát, Ta La Tự Tại Vương Bồ-tát, Pháp Tự Tại Vương Bồ-tát, Tương Tự Vương Bồ-tát, Phạm Tự Tại Vương Bồ-tát, Sơn Tự Tại Vương Bồ-tát, Húng Tự Tại Vương Bồ-tát, Tốc Tật Tự Tại Vương Bồ-tát, Tịch Tịnh Tự Tại Vương Bồ-tát, Bất Động Tự Tại Vương Bồ-tát, Thế Lực Tự Tại Vương Bồ-tát, Tối Thắng Tự Tại Vương Bồ-tát, Tịch Tịnh Âm Bồ-tát, Vô Ngại Âm Bồ-tát, Địa Chấn Âm Bồ-tát, Hải Chấn Âm Bồ-tát, Vân Âm Bồ-tát, Pháp Quang Âm Bồ-tát, Hư Không Âm Bồ-tát, Thuyết Nhứt Thiết Chúng Sanh Thiện Căn Âm Bồ-tát, Thị Nhứt Thiết Đại Nguyện Âm Bồ-tát, Đạo Tràng Âm Bồ-tát, Tu Di Quang Giác Bồ-tát, Hư Không Giác Bồ-tát, Ly Nhiễm Giác Bồ-tát, Vô Ngại Giác Bồ-tát, Thiện Giác Bồ-tát, Phổ Chiếu Tam Thế Giác Bồ-tát, Quảng Đại Giác Bồ-tát, Phổ Minh Giác Bồ-tát, Pháp Giới Quang Minh Giác Bồ-tát, v.v… năm trăm đại Bồ-tát như vậy câu hội. Mỗi vị Bồ-tát mang cho mình một danh hiệu riêng tùy thuộc vào hạnh nguyệnthành quả tu chứng trong việc thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh của riêng từng vị một mà có được. Như Bồ-tát Quán Thế Âm có được danh xưng là Đại từ Đại bi tầm thinh cứu khổ cứu nạn linh cảm ứng Quán Thế Âm Bồ-tát cũng nhờ vào sự kết hợp giữa pháp tu và hạnh nguyện cứu khổ độ sanh mà có được danh xưng như vậy và danh hiệu các vị Bồ-tát khác cũng như vậy.

Tùy thuộc vào địa vị tu tập ngộ giải sâu cạn mà Bồ-tát có thể phân ra nhiều chủng loại khác nhau. Theo kinh Bồ-tát Địa trì 8, phẩm Công đức Bồ-tát thì Bồ-tát được phân ra làm mười:

Chủng tánh (gotra-stha), ở đây, vị nào chưa được tâm thanh tịnh thì gọi là Chủng tánh.

– Nhập, ở đây, vị nào đã phát tâm tu học thì những vị đó thuộc vào loại Nhập.

– Vị tịnh (a-usuddhàsuaya), ở đây, vị nào đã nhập rồi nhưng chưa thông đạt được tâm địa thanh tịnh thì gọi là chưa trong sạch (vị tịnh).

– Tịnh (usuddhàsuaya), ở đây, vị nào đã nhập vào được tâm địa thanh tịnh thì gọi là thanh tịnh.

– Vị thục (a-paripakva), ở đây, vị nào đã được tâm địa thanh tịnh, nhưng chưa nhập vào được địa cứu cánh thì vị đó gọi là chưa chín mùi (vị thục).

– Thục (paripakva), ở đây, vị nào đã nhập vào địa cứu cánh thì vị đó được gọi là chín mùi (thục).

Vị định (a-niyati-patita), ở đây, vị nào đã nhập được vào địa cứu cánh rồi, nhưng chưa nhập vào địa của định thì vị ấy được gọi là chưa đạt định (vị định).

– Định (niyati-patita), ở đây, vị nào đã vào được địa của định thì vị đó được gọi là đạt định.

Nhất sinh (eka-jâti-pratibaddha), ở đây, vị Bồ-tát chỉ qua một lần sanh này tức sẽ lên Diệu giác quả vị Phật. Cho nên, những vị Đẳng giác Bồ-tát đều được gọi là Nhất sanh bổ xứ cả, vì các vị Đẳng giác Bồ-tát vô minh hoặc chưa hết nên vẫn còn một phen biến dịch sinh tử.

Tối hậu thân (carama-bhavika, hay antima-deha), ở đây, chỉ cho thân sau cùng trong sinh tử của hàng Bồ-tát Đẳng giác. Như vậy, chúng ta thấy ở đây có sự liên hệ nhau giữa Nhất sinh và thân tối hậu cùng có một nghĩa như nhau về mặt thời gian.

Ngoài mười chủng loại như trên Bồ-tát còn phân ra làm hai loại: Bồ-tát tại gia cùng xuất gia, Bồ-tát thối chuyển cùng bất thối chuyển, Bồ-tát sinh thân cùng pháp thân, Bồ-tát nhục thân sinh tử cùng sinh thân pháp tánh, Bồ-tát đốn ngộ cùng tiệm ngộ, Bồ-tát đã phát tâm lâu (đại lực) cùng mới phát tâm, Bồ-tát trí (trí tuệ) tăng cùng bi (từ bi) tăng v.v…

Theo Pháp tướng tông chủ trương thì trí tuệ tăng cùng từ bi tăng có sự liên hệ đến sự phân loại Bồ-tát từ “bát địa” trở về trước thẳng đến Bồ-tát (Bồ-tát đốn ngộ), sau khi hàng phục hết thảy mọi thứ phiền não chướng sinh khởi hiện hành thì lập tức lãnh thọ thân biến dịch, thành tựu trí tăng thượng Bồ-tát; đến sau khi hàng phục hoàn toàn tâm của địa thứ bảy thì sẽ thọ thân phân đoạn, thành tựu bi tăng thượng Bồ-tát hoặc là Đại bi Bồ-tát. Riêng các hàng Bồ-tát hồi tâm (Bồ-tát tiệm ngộ) mà nói thì từ “bất hoàn” cùng với hồi tâm A-la-hán, cần tăng trưởng trí tuệ để đối trị việc đoạn phiền não của Dục giới; riêng từ “dự lưu” cùng với các hàng hồi tâm “nhất lai” thì có thể cần trí tăng thượng hay bi tăng thượng tùy thuộc vào việc đối trị và lòng thể hiện tình thương của họ mà thể hiện. Tuy nhiên giai đoạn này vẫn có Bồ-tát phát triển hai mặt trí và bi cân bằng. Lúc này các hàng Bồ-tát nào ở vào vị Thập tín thì gọi là Bồ-tát mới phát tâm.

Trong thời gian thượng cầu Phật đạo, tức là Bồ-tát phát tâm tu hành để tự đem lợi về cho chính mình thì thời gian này gọi là Bồ-tát hành, nên Bồ-tát luôn quan hệ đến tất cả các phương pháp, pháp tắc nghi thức, những lời dạy tu hành của đức Phật dành cho các vị Bồ-tát, để tiến đến mục tiêu cuối cùng là đạt quả vị Phật phải qua cỗ xe được gọi là Bồ-tát thừa; và những kinh điển dành riêng cho các hàng Bồ-tát được gọi là Bồ-tát tạng. Như kinh Phạm Võng chẳng hạng đức Phật cũng dùng giới luật để cho các hàng Bồ-tát thanh tịnh ba nghiệp thân khẩu ý phải qua việc hành trì Bồ-tát giới.

Nói tóm lại, Bồ-tát là quả vị, cõi thứ chín trong mười cõi. Cõi sắp hoàn thành sự nghiệp tự mình giác ngộ cho chính mình và đồng thời cũng giác ngộ cho người khác cũng giống như mình trong sự nghiệp hạ hóa chúng sinh, để hoàn thành sự nghiệp giác hạnh viên mãn thành Phật. Bởi vậy, trong lúc Bồ-tát hành đạo, vì đặt vấn đề giải thoát tối hậu cuối cùng lên trên hết, mặc dù việc hạ hóa chúng sinh không phải là việc thứ yếu nhưng chúng vẫn quan trọng cần thiết trong việc hỗ trợ mục đích cuối cùngthành Phật, nên các Ngài luôn luôn nỗ lực cho dù bị lệ thuộc vào phát nguyện lớn là cứu độ chúng sinh, nhưng việc làm của các Ngài không bị chúng sinh trói buộc lôi kéo qua việc không tạo nhân sinh tử, mặc dù các Ngài luôn sống trong nhân quả. Vì nhân quả chỉ bị lệ thuộc vào ba cõi sáu đường của thiện ác báo ứng, trong khi đó Bồ-tát ra khỏi được ba cõi sáu đường, nên Bồ-tát hạnh của các Ngài bằng vào nguyện lực vượt thoát nghiệp lực nhân quả với không tâm tạo nhân nên nếu quả có nhận đi chăng nữa cũng là không quả vô cầu. Đó là chúng ta đứng về mặt Bồ-tát mà luận. Vì Bồ-tát không tạo nhân, cho nên không nhận quả. Nhưng nếu đứng về mặt nhân quả chúng sinh mà luận thì Bồ-tát rất sợ nhân, nên các Ngài không bao giờ tạo nhân dù là thiện nhân đi chăng nữa. Vì thiện nhân cũng vẫn còn ở trong vòng sinh tử luân hồi, sợ nhân sinh tử luân hồi nên các Ngài không tạo nhân. Ngược lại với Bồ-tát, chúng sinh thì sợ quả, vì chúng sinh mê mờ nên không nhận thức được việc làm của mình là câu hữu với vô minh, nuôi lớn ba độc tham, sân, si, vun trồng bản ngã, nên không thấy được cái tác hại của những hành động của mình (nhân), tạo ra mọi nguyên nhân để nuôi lớn bản ngã vô minh tà kiến của mình mà không biết được cái tác hại của chúng sẽ đến sau đó. Cho nên chúng sinh cứ mặc tình mặc sức tạo ra mọi tác nhân để rồi sau đó nhận lãnh mọi hậu quả tác hại đến bản thân mình thì lúc này mới bật ngửa ra biết những việc làm trước kia của chúng tatai hại qua cái quả mang lại khổ đau trong hiện tai rồi mới đâm ra sợ quả mà mình đang gánh chịu! Bởi vậy cho nên, chúng ta thường nghe mọi người nói là: “Bồ-tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”, là phát xuất từ quan điểm này. Thật ra, Bồ-tát đâu có còn tạo nhân bằng hữu tâm nữa mà sợ nhân, nhưng về mặt chúng sinh mà luận thì tạm thời chúng ta chấp nhận quan điểm này cũng không sao.


Thích Đức Thắng

[Tập san Pháp Luân – số 24, tr.3, 2006]

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1278)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1437)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1067)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1170)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1188)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1590)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1551)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2714)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1721)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1267)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1135)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1179)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1299)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1235)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1837)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1577)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1785)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1714)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2253)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1671)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2000)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 1991)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2156)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1750)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1862)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 1929)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1843)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 1995)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1826)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1764)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1844)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1779)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2052)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2151)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1857)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 1974)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1738)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1791)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2292)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2189)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3684)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2340)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3000)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2371)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 1944)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1708)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3203)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2235)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 2926)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2587)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 1937)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 2899)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2538)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3426)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3279)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4104)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3592)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4153)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2254)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant