Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Thị Hiện Thuyết Pháp Trong Kinh Nikàya

08 Tháng Mười Một 202206:18(Xem: 1513)
Phật Thị Hiện Thuyết Pháp Trong Kinh Nikàya
Phật Thị Hiện Thuyết Pháp Trong Kinh Nikàya

Tâm Tịnh 

Phật Thị Hiện Thuyết Pháp


Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộcphổ biến đối với quý Phật tử Đại ThừaThuật ngữ này không thấy xuất hiện trong Tam Tạng Kinh Điển Thượng Tọa Bộ, hay Phật Giáo Nam Truyền. Tuy nhiên, trong các kinh bổn sinh, thuộc Tiểu Bộ Kinh Nikàya, quý bạn đọc có thể nhận biết ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ thông qua những sắc tướng bàng sinh như con nai thuyết pháp, con chó thuyết pháp, con gà thuyết pháp, con quạ, con két vv thuyết pháp bằng giọng người, và giáo pháp của ‘quý bàng sinh’ này tồn tại ở đời 10 ngàn năm, 40 ngàn năm có khi lên đến 60 ngàn năm, khiến vô lượng hữu tình bỏ tà theo chánh, bỏ trượng, bỏ kiếm, đoạn ác tu thiện, sống an vui và sau khi xả bỏ thân mạng, được sinh về thiên giới hay cõi đời này, hưởng sự vui ‘thù thắng’ do thiện nghiệp tích tập trong đờiĐặc biệt, có những chân ngôn chẳng hạn từ con chim công (Tiền thân 491) khiến người nghe hốt nhiên đại ngộ, thấu hiểu đặc tính vô thường, khổ và vô ngã của tất cả pháp, thâm nhập tri kiến Bích Chi Phậtgiải thoát sinh tử. Trong bài luận này ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ tập trung làm sáng tỏ những vấn đề sau: 1) Làm sao nhận biết Phật thị hiện thuyết pháp? 2) Phật thị hiện thuyết pháp bằng cách nào? 3) Tại sao Phật thị hiện thuyết pháp?

1.  Làm sao nhận biết Phật thị hiện?

Trong Tiểu Bộ Kinh Nikàya có nhiều tích truyện bổn sinh kể về các loài bàng sinh thuyết pháp. Trong bài luận này, để trả lời ‘thích đáng’ ba vấn đề nêu trên, bút giả xin trích dẫn câu chuyện tiền thân số 388 Con Heo Mõm Dài (Tiền Thân Tundila) và những vần kệ tương ưngphù hợp với ý nghĩa và mục đích của bài viết này.   

Nội dung chính của câu chuyện 388 xin được tóm tắt như sau:

Một cụ bà nuôi hai con heo rừng, được cụ mang về từ khi còn rất nhỏ do heo mẹ bỏ rơi trong rừng. Bà rất thương hai chú heo như con mình nên cho chúng ăn ngon và chăm lo chúng chu đáo, theo thời gian hai chú heo lớn và béo tròn. Có nhiều người đề nghị bà cụ bán chúng nhưng bà kiên quyết nói ‘không’ vì thương chúng như con. Một hôm có 30 người uống rượu năn nỉ bà bán, nhưng vẫn không thể làm bà lung lay. Cuối cùng bọn họ phục bà cụ uống rượu say và bà đồng ý bán một con. Bà nói chỉ bán con heo em và không bán con heo anh (Bồ Tát là con heo anh, tiền thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni). Con heo em biết mình sắp bị làm thịt nên sợ chết, khóc lóc. Nhân đây, Bồ Tát (con heo anh) liền thuyết pháp với dáng an tịnh của một vị Phật:

Người không sinh mạng là vui

Người còn sinh mạng bời bời lo toan

Con người phải chết chớ buồn

Phải vui như hội trăng tròn quanh năm.

Trong khi ngài xem xét Thập hạnh viên mãn (Ba-la-mật), ngài đặt Từ hạnh viên mãn ra trước mặt làm kim chỉ nam và ngâm hai vần kệ đầu, giọng ngài lan xa tận Ba-la-nại khắp cả mười hai dặm. Ngay lúc nghe giọng ấy, toàn dân Ba-la-nại từ quốc vương, phó quốc vương trở xuống đều đi đến đây, cùng những ai không đến đều đứng nghe trong nhà họ.

Quân sĩ nhà vua chặt hết bụi cây, san bằng mặt đất và rải cát lên. Đám người thô tục đã tỉnh cơn say rượu, liền quăng bỏ thòng lọng và đứng nghe Phápbà già nọ cũng tỉnh rượu luôn. Bồ-tát bắt đầu thuyết Pháp cho Heo bé giữa đám quần chúng.

Như vậy bậc Đại Sĩ thuyết Pháp bằng giọng ngọt ngào với vẻ kỳ diệu của một vị Phật. Đám đông hàng ngàn người búng ngón tay, vẫy khăn tung hô và bầu không khí vang dậy tiếng reo:

Tốt lành thay, tốt lành thay!

Vua Ba-la-nại tôn kính mời Bồ-tát lên vương tọa, và làm cho bà già vinh hiển bằng cách truyền tắm hai chú Heo với nước tẩm hương, mặc lễ phục, trang điểm vàng ngọc trên cổ và ban cho địa vị các vương tử trong kinh thành. Vì thế vua bảo vệ hai chú Heo với một đoàn quân hộ tống đông đảo.

Bồ-tát dạy Ngũ giới cho vua và tất cả dân chúng ở Ba-la-nại cùng Kàsi đều giữ Ngũ giới. Bồ-tát thuyết Pháp cho dân chúng vào các ngày trai giới (mồng tám và rằm) và ngồi xử án. Trong thời gian còn tại thế, không có người nào chịu bản án bất công cả. Sau đó vua băng hà, Bồ-tát cử hành tang lễ của vua, rồi ngài truyền viết một sách ghi đủ các phán quyết và bảo:

- Các vị phải theo sách này để xử án.

Sau khi thuyết Pháp cho quần chúng với nhiệt tâm, Ngài cùng chú Heo bé đi vào rừng trong lúc quần chúng than khóc kêu gào. Lời thuyết giảng của Bồ-tát lưu truyền suốt sáu mươi ngàn năm sau.

(Tiểu Bộ Kinh Nikàya. Tiền thân số 388. Con Heo Mõm Dài).

Như vậy, có bốn căn cứ trong đoạn trích tóm lược trên chỉ dấu cho thấy Phật hay Bồ Tát Pháp Thân Đại Sỹ thị hiện thuyết pháp.

1.1 Vần kệ cho thấy ‘ta (con heo) từ ‘chỗ’ vô sanh mà sanh

Người không sinh mạng là vui (con heo anh từ chỗ vô sanh mà sanh nên an vui, không sợ hãi)

Người còn sinh mạng bời bời lo toan (con heo em chấp vào sắc tướng giả tạm này của mình nên lo toan u sầu than khóc vì sợ mất mạng ‘huyễn hoặc’ này.)

Vần kệ đầu tiên cho thấy con heo từ chỗ vô sanh mà sanh, tức là từ Pháp thân (Phật hay Bồ Tát Pháp Thân Đại Sỹ, từ Bát Địa - Thập Địathanh tịnhthường trụbất biến, không sanh, không diệt, không nghiệp, không báo mà sanh, vì thường tịch lặng nên được an vui (chơn lạc). Câu kệ này còn có nghĩa là ‘Sắc’ (con heo) tức là ‘Không’ (từ nơi chơn nhưkhông tánh mà sanh). Chỗ này tương đương với hai câu kệ sau đây trong Kinh Hoa Nghiêm:

Thân Phật vốn vô sanh
Mà thị hiện xuất sanh.

 (Phẩm Như Lai Hiện Tướng thứ 2).

Như vậy, vần kệ trên chỉ dấu cho thấy con heo anh vốn vô sanh (Pháp thân Phật) mà thị hiện xuất sanh để thuyết pháp.

1.2  Thập hạnh viên mãn ba-la-mậtTrong khi ngài (con heo anh) xem xét Thập hạnh viên mãn (Ba-la-mật), ngài đặt Từ hạnh viên mãn ra trước mặt làm kim chỉ nam

Trong Chánh Giác Tông hay Phật Sử (Tiểu Bộ Kinh Nikàya, Pali tạng), Bồ Tát tu tập viên mãn thập ba-la-mật là Bồ tát sắp thành Phật, tương đương với Bồ Tát Pháp Thân Đại sỹ Thập Địa như Bồ Tát Di LặcBồ Tát Văn Thù Sư LợiBồ Tát Quán Thế ÂmBồ Tát Phổ Hiền vv. Bồ Tát ở địa này, thân tự tại tùy duyên ứng hiện hóa độ chúng sanh trong các cõi nước khắp mười phương. Như vậy, con heo là chỗ thị hiện của Bồ tát Pháp Thân Đại sỹ Thập Địa, hay Pháp thân Phật.

Mười phương vi trần cõi

Lưới sáng trùm khắp nơi

Quang minh đều có Phật

Khắp hóa độ quần sanh.

(Phẩm Như Lai hiện tướng, thứ 2)

1.3 Thuyết pháp với dáng an tịnh của một vị Phật

Chư Hiền Thánh Tăng kết tập kinh điển đồng tâm nhất trí trong việc dùng ngôn từ như bậc Đại sĩ, vị Phật dành cho con heo anh trong khi thuyết pháp “Bậc Đại Sĩ thuyết Pháp bằng giọng ngọt ngào với vẻ kỳ diệu của một vị Phật.”, hàm ý Phật thị hiện qua sắc tướng con heo để thuyết pháp cho đại chúng xứ Ba-la-nại và xứ Kasi.

1.4 Pháp âm vô ngại

Không những bậc Đại Sĩ thuyết pháp cho con heo em mà cho cả những người xung quanh, và hơn thế nữa giọng ngài lan xa tận Ba-la-nại khắp cả mười hai dặm. Ngay lúc nghe giọng ấy, toàn dân Ba-la-nại từ quốc vương, phó quốc vương trở xuống đều đi đến chỗ con heo đang thuyết pháp, cùng những ai không đến đều đứng nghe trong nhà họ.

Lời thuyết pháp của ngài vô chướng ngại vì Thanh Không (không thêm, không bớt, không sanh, không diệt, không nghiệp, không báo, không trước, không sau, chẳng động, chẳng khởi, vv). Pháp âm đồng một âm thanh, chẳng phải âm thanh của loài heo mà nghe như tiếng loài heo, chẳng phải âm thanh của loài người, nghe như âm thanh (giọng) người. Tùy theo nghiệp báo sai biệt nên nghe khác nhau. Vì Thanh Không, nên không có chướng ngại về mặt không gian và thời gian, tức là sự sự vô ngại. Cho nên chân ngôn không những con heo em được nghe hiểu, những người tại chỗ được tín thọ, mà còn vượt qua không gian 12 dặm đến cung vua Ba-la-nại khiến vua quan và thần dân tìm đến chỗ con heo để nghe thuyết pháp, và ngay cả những người ở tại nhà của mình cũng nghe được pháp âm của ngài, một bậc Đại Sỹ, một vị Phật qua sắc tướng con heo anh.

Thế Tôn hay diễn một âm thanh
Hữu tình mỗi mỗi tùy loài giải.

(Phẩm 4. Nhân Địa Pháp TạngPhật Thuyết Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh. Hán Văn: Cư Sỹ Hạ Liên Cơ kết tập. Việt Văn: Tâm Tịnh.)

2.  Phật thị hiện bằng cách nào?

2.1 Từ Tánh Không (hay Pháp thânPhật tánh) mà đến

Đồng tử Thiện Tài thưa: Đại Thánh từ xứ nào đến?

Bồ tát Di Lặc nói: Chư Bồ tát không đến không đi, như vậy mà đếnKhông đi không trụ (dừng ở), như vậy mà đến. Không xứ sở, không bám chấp, không sanh, không trụ, không dời, không động, không khởi, không luyến, không bám, không nghiệp, không báo, không khởi, không diệt, không đoạn, không thường, như vậy mà đến.

(Hoa Nghiêm Kinh. Phẩm Nhập Pháp Giới, thứ 39)

Đoạn kinh văn trên cho thấy chư Đại Bồ Tát Pháp Thân Đại Sỹ như Bồ Tát Di Lặc, hay chư Phật từ nơi Tánh KhôngPhật tánh hay Pháp thânQuang minh thanh tịnh mà đến, mà thị hiện, mà hóa hiện.

Quang Minh hóa hiện thành đài tòa

Quang minh thanh tịnh đấng biến tri

Trong vật trang nghiêm đều hiện bóng.

(Hoa Nghiêm Kinh. Phẩm Hoa Tạng thế giới, thứ 5)

Vần kệ thứ nhất, “Người không sinh mạng là vui”, có nghĩa là: con heo anh từ nơi vô sanh mà sanh, tức là Tánh KhôngPháp Thân thanh tịnh mà thị hiện thân heo như huyễn (hiện bóng) để thuyết pháp.

2.2 Như Đại Nguyện ‘thuở xưa” mà đến

Bồ Tát Di Lặc dạy: Này, Thiện nam tử (Thiện Tài Đồng Tử), Bồ Tát từ nơi đại nguyện mà đến, vì nguyện lực thuở xưa gia trì (Nhập Pháp Giới, thứ 39).

Như vậy, Chư Phật, chư đại Bồ Tát nhờ nguyện lực thuở xưa mà thị hiện.

3.  Tại sao Phật thị hiện?

Vì muốn điều phục và cứu hộ chúng sanh, chư Phật, Bồ Tát từ nơi đại từ đại bi mà đến, mà thị hiện

Này thiện nam tử! Bồ tát từ nơi đại bi mà đến, vì muốn điều phục các chúng sanhTừ nơi đại từ mà đến vì muốn cứu hộ các chúng sanh (Nhập Pháp Giới, thứ 39).

Trong tích truyện 388 này có đoạn, “Trong khi ngài (con heo anh) xem xét Thập hạnh viên mãn (Ba-la-mật), ngài đặt Từ hạnh viên mãn ra trước mặt làm kim chỉ nam”, chỉ dấu cho thấy  bậc Đại sỹ vì lòng đại từđại bi mà đến, mà thị hiện thành con heo thuyết pháp cứu mạng con heo bé, thuyết pháp ngũ giớibát quan trai giớithập vương pháp (Bố thínhân từđức hạnh, công bình, thân ái, nhu mì, ôn hòanhẫn nhụcĂn năn, bi mẫn) cho vua quan, thần dân của vương quốc Ba-la-nại và cả xứ Kasi để họ bỏ tà theo chánh, bỏ trượng, bỏ kiếm (đoạn tận sát sanh), đoạn ác tu thiện, khiến cho nhà nhà lạc an, đất nước thái bình, mưa thuận gió hòa, mọi hữu tình đều được sống an yên, hạnh phúcGiáo pháp của Ngài tồn tại ở đời sáu mươi ngàn năm, mang lại lợi lạc lâu dài cho mọi người và mọi loài.

Để ý kỹ có thể nhận thấy rằng câu kệ đầu, Người không sinh mạng là vui, là chân pháp bất tử, dường như là một sự tuyên bố rằng: Ta (con heo) từ ‘nơi’ vô sanh mà sanh, hơn nữa để trấn an con heo em không chấp vào sắc thân như huyễn. Trong khi đó, những lời pháp của Ngài cho đại chúng chỉ chú trọng vào ngũ giớibát quan trai giới và thập vương pháp, mà không thuyết pháp ‘bất tử’, với mục đích để mọi người đoạn ác tu thiện, để có cuộc sống hiền thiện, an lạc trong đời sống hiện thời, và đời sau được tái sinh về thiện thú.

Trong khi đó, chuyện Đại Khổng Tước số 491, Ngài là con chim công thuyết pháp cho người thợ săn, và sau khi nghe thời thuyết pháp ngắn gọn, người thợ săn thấu hiểu tường tận pháp chân đế và trở thành một Bích Chi Phật như đoạn trích sau đây:

Trong lúc người thợ săn nghe bài thuyết Pháp của ngài, ngay tại chỗ người ấy đang đứng, người ấy hiểu lập tức mọi yếu tố cấu tạo nên các vật hữu hình (tứ đại), thấu suốt cả ba đặc tính căn bản của chúng (đó là: vô thường, khổ, vô ngã) và thâm nhập tri kiến của một Độc Giác phật.

 (Tiểu Bộ Kinh Nikàya. Tiền Thân số 491. Chuyện Đại Khổng Tước (Tiền thân Mahà-Mora).

4.  Kết luận

Như vậy, từ lòng đại từ đại bi và từ đại nguyện ‘năm xưa’ vì muốn điều phục và cứu độ chúng sanh mà quý ngài xuất hiện. Tích chuyện 388 này được xem như là một sự thị hiện của Bồ Tát Pháp Thân Đại sỹ Thập Địa (đã thành tựu viên mãn thập Ba-la-mật), hoặc Pháp Thân Phật qua sắc tướng con heo thuyết pháp, mang lại an vui, hạnh phúc cho loài người và muôn loài chúng sanh trong một thời gian lâu dài (60 ngàn năm). Ngoài ra, còn nhiều tích truyện tiền thân khác thuộc Tiểu Bộ Kinh Nikàya cho thấy Phật hay Bồ Tát thị hiện để ban vui, cứu khổ hữu tình chúng sanh, chẳng hạn chuyện tiền thân số 22 Con Chó Rừng Hiền Trí, không những cứu đàn chó rừng thoát cảnh diệt vong, mà còn thuyết pháp cho vua, cận thần, binh sĩ và thần dân để toàn vương quốc sống hiền từ và an lạcĐặc biệt, chuyện tiền thân số 23 và 24 cho thấy Phật hay Bồ tát thị hiện con Ngựa thuần chủng, hy sinh cả tính mạng của mình để cứu tám quốc gia khỏi cảnh chiến tranh tương tàn, và trước khi xả thân mạng ‘ngựa’ huyễn hoặc vì bị thương nặng, Ngài (con ngữa Sindl thuần chủng) thuyết pháp cho tám vị vua, và từ đó nhân dân tám quốc gia sống an hòa, thái bình, như được đúc kết bằng những vần kệ cảm tác sau:

Vương Mã Sindh Trí Dũng

Tiền Thân có kể chuyện rằng

Ba La Nại Quốc phú cường dân đông

Nhưng rồi Trú Xứ bị vây

Bởi vua bảy nước tiến quân chiếm thành

Vua kia phái một kỵ thần

Xông vào trận tuyến cùng Ngựa Sin-dh

Vương Ngựa thuần chủng giống rồng

Phi nhanh nướt đại xé tan quân thù

Bắt ngay năm vị vua đầu

Đến vua thứ sáu bị gươm đâm người

Máu ra đau đớn khôn cùng

Ngựa không chịu nghỉ dưỡng thương đầu hàng

Khuyên người Kỵ sĩ bó băng

Lao ngay vào chốn ba quân không người

Bắt ngay hoàng đế cuối cùng

Mang về ra mắt Vua thành Bratta

Lại khuyên Vua thả cừu quân

Sống nhu hòa thuận an yên nhân quần

Khuyến Vua thưởng phạt công minh

Theo thập vương pháp toàn dân chan hòa

Ngay khi vừa dứt Lời Vàng

Sin-dh nhắm mắt ra đi an lành!

(Tiểu Bộ Kinh Nikàya. Tiền thân số 23. Chuyện con ngựa thuần chủng (Tiền thân Bhojanìya)

Cứu giúp bằng đạo lý là công hạnh của các vị Bồ Tát hoặc những hành giả Đại Thừa phát Vô Thượng Tâm, tu Bồ Tát Đạo, được ghi lại trong nhiều Kinh Đại Thừa Phật Giáocụ thể như sau:

Thường làm theo tâm từ

Từ bỏ tưởng giận hại

Đại bi thương chúng sanh

Quặn lòng rơi nước mắt

Tu làm thân đại hỷ

với mình cũng đắc pháp

Cứu giúp bằng đạo lý

Ấy là Bồ Tát Hạnh.

(Kinh Hiền Ngu. Phẩm I. Phạm Thiên Thỉnh Pháp. Hòa Thượng Thích Trung Quán dịch từ Hán Văn)

Tâm Tịnh cẩn bút                              

Nguyện đem công đức này
Hướng về chúng sanh khắp pháp giới

Đồng sanh Tây Phương Tịnh Độ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4522)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4576)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7348)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2968)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12220)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3997)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3808)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4227)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3686)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5066)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6693)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4012)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4127)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5342)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3790)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4537)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3552)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3934)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4393)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5396)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3845)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3941)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3878)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4830)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4528)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4271)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3841)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4643)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4213)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6116)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4611)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4954)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4195)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4828)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5672)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3654)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4042)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4592)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5288)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3150)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4767)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4559)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4300)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4743)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4497)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4608)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7223)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5215)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5010)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4599)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5618)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5280)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4164)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6023)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4722)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4883)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5492)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5623)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5826)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 5001)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant