Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật Thị Hiện Thuyết Pháp Trong Kinh Nikàya

08 Tháng Mười Một 202206:18(Xem: 1405)
Phật Thị Hiện Thuyết Pháp Trong Kinh Nikàya
Phật Thị Hiện Thuyết Pháp Trong Kinh Nikàya

Tâm Tịnh 

Phật Thị Hiện Thuyết Pháp


Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộcphổ biến đối với quý Phật tử Đại ThừaThuật ngữ này không thấy xuất hiện trong Tam Tạng Kinh Điển Thượng Tọa Bộ, hay Phật Giáo Nam Truyền. Tuy nhiên, trong các kinh bổn sinh, thuộc Tiểu Bộ Kinh Nikàya, quý bạn đọc có thể nhận biết ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ thông qua những sắc tướng bàng sinh như con nai thuyết pháp, con chó thuyết pháp, con gà thuyết pháp, con quạ, con két vv thuyết pháp bằng giọng người, và giáo pháp của ‘quý bàng sinh’ này tồn tại ở đời 10 ngàn năm, 40 ngàn năm có khi lên đến 60 ngàn năm, khiến vô lượng hữu tình bỏ tà theo chánh, bỏ trượng, bỏ kiếm, đoạn ác tu thiện, sống an vui và sau khi xả bỏ thân mạng, được sinh về thiên giới hay cõi đời này, hưởng sự vui ‘thù thắng’ do thiện nghiệp tích tập trong đờiĐặc biệt, có những chân ngôn chẳng hạn từ con chim công (Tiền thân 491) khiến người nghe hốt nhiên đại ngộ, thấu hiểu đặc tính vô thường, khổ và vô ngã của tất cả pháp, thâm nhập tri kiến Bích Chi Phậtgiải thoát sinh tử. Trong bài luận này ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ tập trung làm sáng tỏ những vấn đề sau: 1) Làm sao nhận biết Phật thị hiện thuyết pháp? 2) Phật thị hiện thuyết pháp bằng cách nào? 3) Tại sao Phật thị hiện thuyết pháp?

1.  Làm sao nhận biết Phật thị hiện?

Trong Tiểu Bộ Kinh Nikàya có nhiều tích truyện bổn sinh kể về các loài bàng sinh thuyết pháp. Trong bài luận này, để trả lời ‘thích đáng’ ba vấn đề nêu trên, bút giả xin trích dẫn câu chuyện tiền thân số 388 Con Heo Mõm Dài (Tiền Thân Tundila) và những vần kệ tương ưngphù hợp với ý nghĩa và mục đích của bài viết này.   

Nội dung chính của câu chuyện 388 xin được tóm tắt như sau:

Một cụ bà nuôi hai con heo rừng, được cụ mang về từ khi còn rất nhỏ do heo mẹ bỏ rơi trong rừng. Bà rất thương hai chú heo như con mình nên cho chúng ăn ngon và chăm lo chúng chu đáo, theo thời gian hai chú heo lớn và béo tròn. Có nhiều người đề nghị bà cụ bán chúng nhưng bà kiên quyết nói ‘không’ vì thương chúng như con. Một hôm có 30 người uống rượu năn nỉ bà bán, nhưng vẫn không thể làm bà lung lay. Cuối cùng bọn họ phục bà cụ uống rượu say và bà đồng ý bán một con. Bà nói chỉ bán con heo em và không bán con heo anh (Bồ Tát là con heo anh, tiền thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni). Con heo em biết mình sắp bị làm thịt nên sợ chết, khóc lóc. Nhân đây, Bồ Tát (con heo anh) liền thuyết pháp với dáng an tịnh của một vị Phật:

Người không sinh mạng là vui

Người còn sinh mạng bời bời lo toan

Con người phải chết chớ buồn

Phải vui như hội trăng tròn quanh năm.

Trong khi ngài xem xét Thập hạnh viên mãn (Ba-la-mật), ngài đặt Từ hạnh viên mãn ra trước mặt làm kim chỉ nam và ngâm hai vần kệ đầu, giọng ngài lan xa tận Ba-la-nại khắp cả mười hai dặm. Ngay lúc nghe giọng ấy, toàn dân Ba-la-nại từ quốc vương, phó quốc vương trở xuống đều đi đến đây, cùng những ai không đến đều đứng nghe trong nhà họ.

Quân sĩ nhà vua chặt hết bụi cây, san bằng mặt đất và rải cát lên. Đám người thô tục đã tỉnh cơn say rượu, liền quăng bỏ thòng lọng và đứng nghe Phápbà già nọ cũng tỉnh rượu luôn. Bồ-tát bắt đầu thuyết Pháp cho Heo bé giữa đám quần chúng.

Như vậy bậc Đại Sĩ thuyết Pháp bằng giọng ngọt ngào với vẻ kỳ diệu của một vị Phật. Đám đông hàng ngàn người búng ngón tay, vẫy khăn tung hô và bầu không khí vang dậy tiếng reo:

Tốt lành thay, tốt lành thay!

Vua Ba-la-nại tôn kính mời Bồ-tát lên vương tọa, và làm cho bà già vinh hiển bằng cách truyền tắm hai chú Heo với nước tẩm hương, mặc lễ phục, trang điểm vàng ngọc trên cổ và ban cho địa vị các vương tử trong kinh thành. Vì thế vua bảo vệ hai chú Heo với một đoàn quân hộ tống đông đảo.

Bồ-tát dạy Ngũ giới cho vua và tất cả dân chúng ở Ba-la-nại cùng Kàsi đều giữ Ngũ giới. Bồ-tát thuyết Pháp cho dân chúng vào các ngày trai giới (mồng tám và rằm) và ngồi xử án. Trong thời gian còn tại thế, không có người nào chịu bản án bất công cả. Sau đó vua băng hà, Bồ-tát cử hành tang lễ của vua, rồi ngài truyền viết một sách ghi đủ các phán quyết và bảo:

- Các vị phải theo sách này để xử án.

Sau khi thuyết Pháp cho quần chúng với nhiệt tâm, Ngài cùng chú Heo bé đi vào rừng trong lúc quần chúng than khóc kêu gào. Lời thuyết giảng của Bồ-tát lưu truyền suốt sáu mươi ngàn năm sau.

(Tiểu Bộ Kinh Nikàya. Tiền thân số 388. Con Heo Mõm Dài).

Như vậy, có bốn căn cứ trong đoạn trích tóm lược trên chỉ dấu cho thấy Phật hay Bồ Tát Pháp Thân Đại Sỹ thị hiện thuyết pháp.

1.1 Vần kệ cho thấy ‘ta (con heo) từ ‘chỗ’ vô sanh mà sanh

Người không sinh mạng là vui (con heo anh từ chỗ vô sanh mà sanh nên an vui, không sợ hãi)

Người còn sinh mạng bời bời lo toan (con heo em chấp vào sắc tướng giả tạm này của mình nên lo toan u sầu than khóc vì sợ mất mạng ‘huyễn hoặc’ này.)

Vần kệ đầu tiên cho thấy con heo từ chỗ vô sanh mà sanh, tức là từ Pháp thân (Phật hay Bồ Tát Pháp Thân Đại Sỹ, từ Bát Địa - Thập Địathanh tịnhthường trụbất biến, không sanh, không diệt, không nghiệp, không báo mà sanh, vì thường tịch lặng nên được an vui (chơn lạc). Câu kệ này còn có nghĩa là ‘Sắc’ (con heo) tức là ‘Không’ (từ nơi chơn nhưkhông tánh mà sanh). Chỗ này tương đương với hai câu kệ sau đây trong Kinh Hoa Nghiêm:

Thân Phật vốn vô sanh
Mà thị hiện xuất sanh.

 (Phẩm Như Lai Hiện Tướng thứ 2).

Như vậy, vần kệ trên chỉ dấu cho thấy con heo anh vốn vô sanh (Pháp thân Phật) mà thị hiện xuất sanh để thuyết pháp.

1.2  Thập hạnh viên mãn ba-la-mậtTrong khi ngài (con heo anh) xem xét Thập hạnh viên mãn (Ba-la-mật), ngài đặt Từ hạnh viên mãn ra trước mặt làm kim chỉ nam

Trong Chánh Giác Tông hay Phật Sử (Tiểu Bộ Kinh Nikàya, Pali tạng), Bồ Tát tu tập viên mãn thập ba-la-mật là Bồ tát sắp thành Phật, tương đương với Bồ Tát Pháp Thân Đại sỹ Thập Địa như Bồ Tát Di LặcBồ Tát Văn Thù Sư LợiBồ Tát Quán Thế ÂmBồ Tát Phổ Hiền vv. Bồ Tát ở địa này, thân tự tại tùy duyên ứng hiện hóa độ chúng sanh trong các cõi nước khắp mười phương. Như vậy, con heo là chỗ thị hiện của Bồ tát Pháp Thân Đại sỹ Thập Địa, hay Pháp thân Phật.

Mười phương vi trần cõi

Lưới sáng trùm khắp nơi

Quang minh đều có Phật

Khắp hóa độ quần sanh.

(Phẩm Như Lai hiện tướng, thứ 2)

1.3 Thuyết pháp với dáng an tịnh của một vị Phật

Chư Hiền Thánh Tăng kết tập kinh điển đồng tâm nhất trí trong việc dùng ngôn từ như bậc Đại sĩ, vị Phật dành cho con heo anh trong khi thuyết pháp “Bậc Đại Sĩ thuyết Pháp bằng giọng ngọt ngào với vẻ kỳ diệu của một vị Phật.”, hàm ý Phật thị hiện qua sắc tướng con heo để thuyết pháp cho đại chúng xứ Ba-la-nại và xứ Kasi.

1.4 Pháp âm vô ngại

Không những bậc Đại Sĩ thuyết pháp cho con heo em mà cho cả những người xung quanh, và hơn thế nữa giọng ngài lan xa tận Ba-la-nại khắp cả mười hai dặm. Ngay lúc nghe giọng ấy, toàn dân Ba-la-nại từ quốc vương, phó quốc vương trở xuống đều đi đến chỗ con heo đang thuyết pháp, cùng những ai không đến đều đứng nghe trong nhà họ.

Lời thuyết pháp của ngài vô chướng ngại vì Thanh Không (không thêm, không bớt, không sanh, không diệt, không nghiệp, không báo, không trước, không sau, chẳng động, chẳng khởi, vv). Pháp âm đồng một âm thanh, chẳng phải âm thanh của loài heo mà nghe như tiếng loài heo, chẳng phải âm thanh của loài người, nghe như âm thanh (giọng) người. Tùy theo nghiệp báo sai biệt nên nghe khác nhau. Vì Thanh Không, nên không có chướng ngại về mặt không gian và thời gian, tức là sự sự vô ngại. Cho nên chân ngôn không những con heo em được nghe hiểu, những người tại chỗ được tín thọ, mà còn vượt qua không gian 12 dặm đến cung vua Ba-la-nại khiến vua quan và thần dân tìm đến chỗ con heo để nghe thuyết pháp, và ngay cả những người ở tại nhà của mình cũng nghe được pháp âm của ngài, một bậc Đại Sỹ, một vị Phật qua sắc tướng con heo anh.

Thế Tôn hay diễn một âm thanh
Hữu tình mỗi mỗi tùy loài giải.

(Phẩm 4. Nhân Địa Pháp TạngPhật Thuyết Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh. Hán Văn: Cư Sỹ Hạ Liên Cơ kết tập. Việt Văn: Tâm Tịnh.)

2.  Phật thị hiện bằng cách nào?

2.1 Từ Tánh Không (hay Pháp thânPhật tánh) mà đến

Đồng tử Thiện Tài thưa: Đại Thánh từ xứ nào đến?

Bồ tát Di Lặc nói: Chư Bồ tát không đến không đi, như vậy mà đếnKhông đi không trụ (dừng ở), như vậy mà đến. Không xứ sở, không bám chấp, không sanh, không trụ, không dời, không động, không khởi, không luyến, không bám, không nghiệp, không báo, không khởi, không diệt, không đoạn, không thường, như vậy mà đến.

(Hoa Nghiêm Kinh. Phẩm Nhập Pháp Giới, thứ 39)

Đoạn kinh văn trên cho thấy chư Đại Bồ Tát Pháp Thân Đại Sỹ như Bồ Tát Di Lặc, hay chư Phật từ nơi Tánh KhôngPhật tánh hay Pháp thânQuang minh thanh tịnh mà đến, mà thị hiện, mà hóa hiện.

Quang Minh hóa hiện thành đài tòa

Quang minh thanh tịnh đấng biến tri

Trong vật trang nghiêm đều hiện bóng.

(Hoa Nghiêm Kinh. Phẩm Hoa Tạng thế giới, thứ 5)

Vần kệ thứ nhất, “Người không sinh mạng là vui”, có nghĩa là: con heo anh từ nơi vô sanh mà sanh, tức là Tánh KhôngPháp Thân thanh tịnh mà thị hiện thân heo như huyễn (hiện bóng) để thuyết pháp.

2.2 Như Đại Nguyện ‘thuở xưa” mà đến

Bồ Tát Di Lặc dạy: Này, Thiện nam tử (Thiện Tài Đồng Tử), Bồ Tát từ nơi đại nguyện mà đến, vì nguyện lực thuở xưa gia trì (Nhập Pháp Giới, thứ 39).

Như vậy, Chư Phật, chư đại Bồ Tát nhờ nguyện lực thuở xưa mà thị hiện.

3.  Tại sao Phật thị hiện?

Vì muốn điều phục và cứu hộ chúng sanh, chư Phật, Bồ Tát từ nơi đại từ đại bi mà đến, mà thị hiện

Này thiện nam tử! Bồ tát từ nơi đại bi mà đến, vì muốn điều phục các chúng sanhTừ nơi đại từ mà đến vì muốn cứu hộ các chúng sanh (Nhập Pháp Giới, thứ 39).

Trong tích truyện 388 này có đoạn, “Trong khi ngài (con heo anh) xem xét Thập hạnh viên mãn (Ba-la-mật), ngài đặt Từ hạnh viên mãn ra trước mặt làm kim chỉ nam”, chỉ dấu cho thấy  bậc Đại sỹ vì lòng đại từđại bi mà đến, mà thị hiện thành con heo thuyết pháp cứu mạng con heo bé, thuyết pháp ngũ giớibát quan trai giớithập vương pháp (Bố thínhân từđức hạnh, công bình, thân ái, nhu mì, ôn hòanhẫn nhụcĂn năn, bi mẫn) cho vua quan, thần dân của vương quốc Ba-la-nại và cả xứ Kasi để họ bỏ tà theo chánh, bỏ trượng, bỏ kiếm (đoạn tận sát sanh), đoạn ác tu thiện, khiến cho nhà nhà lạc an, đất nước thái bình, mưa thuận gió hòa, mọi hữu tình đều được sống an yên, hạnh phúcGiáo pháp của Ngài tồn tại ở đời sáu mươi ngàn năm, mang lại lợi lạc lâu dài cho mọi người và mọi loài.

Để ý kỹ có thể nhận thấy rằng câu kệ đầu, Người không sinh mạng là vui, là chân pháp bất tử, dường như là một sự tuyên bố rằng: Ta (con heo) từ ‘nơi’ vô sanh mà sanh, hơn nữa để trấn an con heo em không chấp vào sắc thân như huyễn. Trong khi đó, những lời pháp của Ngài cho đại chúng chỉ chú trọng vào ngũ giớibát quan trai giới và thập vương pháp, mà không thuyết pháp ‘bất tử’, với mục đích để mọi người đoạn ác tu thiện, để có cuộc sống hiền thiện, an lạc trong đời sống hiện thời, và đời sau được tái sinh về thiện thú.

Trong khi đó, chuyện Đại Khổng Tước số 491, Ngài là con chim công thuyết pháp cho người thợ săn, và sau khi nghe thời thuyết pháp ngắn gọn, người thợ săn thấu hiểu tường tận pháp chân đế và trở thành một Bích Chi Phật như đoạn trích sau đây:

Trong lúc người thợ săn nghe bài thuyết Pháp của ngài, ngay tại chỗ người ấy đang đứng, người ấy hiểu lập tức mọi yếu tố cấu tạo nên các vật hữu hình (tứ đại), thấu suốt cả ba đặc tính căn bản của chúng (đó là: vô thường, khổ, vô ngã) và thâm nhập tri kiến của một Độc Giác phật.

 (Tiểu Bộ Kinh Nikàya. Tiền Thân số 491. Chuyện Đại Khổng Tước (Tiền thân Mahà-Mora).

4.  Kết luận

Như vậy, từ lòng đại từ đại bi và từ đại nguyện ‘năm xưa’ vì muốn điều phục và cứu độ chúng sanh mà quý ngài xuất hiện. Tích chuyện 388 này được xem như là một sự thị hiện của Bồ Tát Pháp Thân Đại sỹ Thập Địa (đã thành tựu viên mãn thập Ba-la-mật), hoặc Pháp Thân Phật qua sắc tướng con heo thuyết pháp, mang lại an vui, hạnh phúc cho loài người và muôn loài chúng sanh trong một thời gian lâu dài (60 ngàn năm). Ngoài ra, còn nhiều tích truyện tiền thân khác thuộc Tiểu Bộ Kinh Nikàya cho thấy Phật hay Bồ Tát thị hiện để ban vui, cứu khổ hữu tình chúng sanh, chẳng hạn chuyện tiền thân số 22 Con Chó Rừng Hiền Trí, không những cứu đàn chó rừng thoát cảnh diệt vong, mà còn thuyết pháp cho vua, cận thần, binh sĩ và thần dân để toàn vương quốc sống hiền từ và an lạcĐặc biệt, chuyện tiền thân số 23 và 24 cho thấy Phật hay Bồ tát thị hiện con Ngựa thuần chủng, hy sinh cả tính mạng của mình để cứu tám quốc gia khỏi cảnh chiến tranh tương tàn, và trước khi xả thân mạng ‘ngựa’ huyễn hoặc vì bị thương nặng, Ngài (con ngữa Sindl thuần chủng) thuyết pháp cho tám vị vua, và từ đó nhân dân tám quốc gia sống an hòa, thái bình, như được đúc kết bằng những vần kệ cảm tác sau:

Vương Mã Sindh Trí Dũng

Tiền Thân có kể chuyện rằng

Ba La Nại Quốc phú cường dân đông

Nhưng rồi Trú Xứ bị vây

Bởi vua bảy nước tiến quân chiếm thành

Vua kia phái một kỵ thần

Xông vào trận tuyến cùng Ngựa Sin-dh

Vương Ngựa thuần chủng giống rồng

Phi nhanh nướt đại xé tan quân thù

Bắt ngay năm vị vua đầu

Đến vua thứ sáu bị gươm đâm người

Máu ra đau đớn khôn cùng

Ngựa không chịu nghỉ dưỡng thương đầu hàng

Khuyên người Kỵ sĩ bó băng

Lao ngay vào chốn ba quân không người

Bắt ngay hoàng đế cuối cùng

Mang về ra mắt Vua thành Bratta

Lại khuyên Vua thả cừu quân

Sống nhu hòa thuận an yên nhân quần

Khuyến Vua thưởng phạt công minh

Theo thập vương pháp toàn dân chan hòa

Ngay khi vừa dứt Lời Vàng

Sin-dh nhắm mắt ra đi an lành!

(Tiểu Bộ Kinh Nikàya. Tiền thân số 23. Chuyện con ngựa thuần chủng (Tiền thân Bhojanìya)

Cứu giúp bằng đạo lý là công hạnh của các vị Bồ Tát hoặc những hành giả Đại Thừa phát Vô Thượng Tâm, tu Bồ Tát Đạo, được ghi lại trong nhiều Kinh Đại Thừa Phật Giáocụ thể như sau:

Thường làm theo tâm từ

Từ bỏ tưởng giận hại

Đại bi thương chúng sanh

Quặn lòng rơi nước mắt

Tu làm thân đại hỷ

với mình cũng đắc pháp

Cứu giúp bằng đạo lý

Ấy là Bồ Tát Hạnh.

(Kinh Hiền Ngu. Phẩm I. Phạm Thiên Thỉnh Pháp. Hòa Thượng Thích Trung Quán dịch từ Hán Văn)

Tâm Tịnh cẩn bút                              

Nguyện đem công đức này
Hướng về chúng sanh khắp pháp giới

Đồng sanh Tây Phương Tịnh Độ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2678)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5094)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3739)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3788)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3147)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4022)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 4948)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3453)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6609)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3910)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3143)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3056)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2890)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5772)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4544)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3433)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2824)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3234)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4354)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5592)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6522)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3632)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4462)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4504)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3911)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3336)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4491)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 5928)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5749)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3565)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4595)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4389)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4444)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4196)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4507)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8094)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3860)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5642)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5090)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6721)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6102)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 5868)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5655)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6133)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6656)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4876)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5454)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6272)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3679)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5290)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10343)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 5979)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
(Xem: 9190)
Bốn cấp độ thiền định hay tứ thiền là bốn mức thiền khi hành giả thực hành thiền có thể đạt được.
(Xem: 6285)
Một bào thai sở dĩ có mặt trên cuộc đời này ngoài yếu tố chính là do cha mẹ sinh ra, còn là kết quả của một tiến trình không đơn giản.
(Xem: 5850)
Đạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người.
(Xem: 7321)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc
(Xem: 7163)
Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bitrí tuệ. Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu khôngtừ bi thì không có đạo Phật.
(Xem: 5067)
Các nhà khảo cổ đang nghiên cứu tại Nepal đã phát hiện bằng chứng về một kiến trúc tại nơi sinh ra Đức Phật có niên đại thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.
(Xem: 7939)
Theo Đức Phật, tất cả những vật hiện hữu đều biến chuyển không ngừng. Sự biến chuyển này thì vô thuỷ vô chung. Nguồn gốc của vũ trụ không do một Đấng Sáng tạo (Creator God) tạo ra.
(Xem: 5787)
Đức Phật đản sanh vào năm 624 trước Công nguyên. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh ngày Rằm tháng Tư Âm lịch.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant