Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

“Kịch Bản” Đón Phật Trong Kinh Lăng-già

24 Tháng Mười Một 202207:19(Xem: 1252)
“Kịch Bản” Đón Phật Trong Kinh Lăng-già
“Kịch Bản” Đón Phật Trong Kinh Lăng-già

Huỳnh Ngọc Chiến


“Kịch Bản” Đón Phật Trong Kinh Lăng-già

Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật. Trong các bộ Trường Bộ Kinh hay Trung Bộ Kinh, v.v.  sau câu mở đầu “Tôi nghe như vầy” là gần như ta thấy hiện ra hình ảnh Đức Thế Tôn ngồi một cách bình dị nơi  khu vườn xoài của Kỳ-bà (Jīvaka) tại thành Vương-xá (Rājagaha), để thuyết giảng cho chúng Tỳ-kheo bằng những pháp thoại cũng bình dị và dễ hiểu. Hoặc có khi Đức Phật  thuyết pháp tại các bộ lạc, hoặc các tiểu quốc, v.v.  Nhưng nói chung là Đức Phật cứ tùy nghi thuyết pháp ở mọi nơi, trong những bối cảnh rất đổi trần gian.

Bước sang thế giới kinh điển đại thừa thì mọi chuyện đều đổi khác. Cái Bồ Đề Đạo Tràng bình dị trong các kinh Nikāya được chuyển thành một bối cảnh cực kỳ hoành tráng. Chỗ ngồi của Đức Phật biến thành sư tử tọa, thính chúng phải là hàng vạn Bồ Tát thông tuệ từ vô lượng các Phật độ cùng về vân tập. Mỗi lần Đức Phật chuẩn bị thuyết pháp là cả một kịch bản hoành tráng về không gian lẫn thính chúng, khiến ta không khỏi khâm phục trí tưởng tượng cực kỳ phong phú của những vị Bồ-tát viết kinh.

Thử nhìn thính chúng trong kinh Duy Ma (bản dịch của cố HT.Thích Huệ Hưng):  

tám nghìn chúng Đại Tỳ-kheo, hai vạn hai nghìn Bồ-tát, là những vị có tiếng tăm, đều đã thành tựu trí hạnh đại thừa, do nhờ oai thần của chư Phật lập nên. Các Ngài làm bức thành hộ phápgiữ gìn chánh pháp, diễn nói pháp âm rất oai hùng, tự tại vô úy như sư tử rống danh đồn xa khắp mười phương. Người đời không cầu thỉnh mà các Ngài sẵn sàng làm bạn giúp cho an vui. Các Ngài xương minh Tam bảo không dể dứt mất, hàng phục tất cả ma oán, ngăn dẹp các ngoại đạo; sáu căn ba nghiệp đều đã thanh tịnh; trọn lìa năm món che ngăn và mười điều ràng buộc. Tâm thường an trụ nơi lý vô ngại giải thoátniệm định tổng trì  bình đẳngbiện tài thông suốt như suối tuôn không dứt. Các hạnh bồ thí, trì giớí, nhẫn nhụctinh tấnthiền địnhtrí tuệ và sức phương tiện lợi mình lợì người thảy đều đầy đủ. Đã được đến bực vô sở đắc mà không khởi pháp nhẫn (vô sinh pháp nhẫn), hay tùy thuận dìễn nói pháp luân bất thối, khéo hiểu rõ chân tướng các pháp, thấu biết căn cơ chúng sanhoai đức bao trùm đại chúng, không còn sợ sệt chi cả.

Còn đây là không gian

Bấy giờ Đức Phật nói Pháp cho vô lượng trăm nghìn đại chúng đông đảo cung kính vây quanh đấy, ví như núi chúa Tu Di hiển bày nơi bể cả. Ngài ngồi yên trên tòa Sư tử  trang nghiêm bằng các thứ báu, oai đức che trùm tất cả đại chúng… Lại nữa, các núi Tu Di, Mục Chơn Lân Dà , Đại Mục Chơn Lân ĐàTuyết SơnHương SơnBảo SơnKim SơnHắc SơnThiết ViĐại Thiết Vi, bể lớn, sông, rạch, dòng ngòi, nguốn suối, cũng với mặt trờimặt trăng, các ngôi sao, thiên cunglong cung và cùng các vị tôn thần, nơi cõi Tam thiên đại thiên thế giới này đều hiện trong lọng bảy báu, và chư Phật trong mười phương, chư Phật đang nói pháp, cũng hiện trong lọng bảy báu ấy.

Đại khái trên đây là “kịch bản” phổ biến chung để chuẩn bị cho Đức Phật thuyết pháp, mà ta thường  thấy trong phần mở đầu của hầu hết kinh điển Đại thừa, trừ kinh Nhập Lăng-già!  

Bản dịch kinh Nhập Lăng-già nổi tiếng của pháp sư Cầu Na Bạt Đà La đi thẳng vào trọng tâm của kinh chỉ bằng một chiêu thức “Nhất thiết Phật ngữ tâm” theo kiểu “khai môn kiến sơn”, chứ không  không có “vòng vò Tam Quốc”, nên ta không thấy được các bước chuẩn bị. Nhưng trong bản dịch của Thực Xoa Nan Đà và Bồ Đề Lưu Chi lại có một phẩm mở đầu, giống như bản Phạn ngữ hiện nay, và chính phẩm mở đầu đó đã cho ta thấy Đức Phật cùng “phái đoàn” các Bồ-tát đến thành Lăng Già để giảng pháp được chào đón theo một kịch bản vô cùng mãn  nhãn, khác hẳn với các kinh khác. Đó là một cảnh tượng siêu nhiên hòa quyện với môi trường thế gian  một cách rất đỗi hài hòa. 

Thính chúng dĩ nhiên cũng như bao kinh điển đại thừa khác, gồm những vị Bồ-tát đã:

…du hý đối với các loại tam muội, đầy đủ [mười] tự tại, [mười] lực và [sáu] thần thông, được chư Phật dùng tay làm phép quán đảnh. Các ngài đều khéo hiểu nghĩa tự tâm sở hiện, tùy thuận theo các loại tâm hành của chúng sinh mà điều phục giáo hóa; đối với năm pháp, ba tự tánh, tám thức và hai thứ vô ngã, các ngài đều thông đạt rốt ráo.[1]

Lăng-già (Laṅkā) là một hòn đảo cô độc nằm giữa đại dương, một trong số các hòn đảo ở miền nam Ấn ĐộLăng Già thường được đồng hóa với Ceylon, song các học giả vẫn chưa hoàn toàn nhất trí với nhau về điểm này. Từ “nhập” ở đây có lẽ ám chỉ việc đức Phật vượt biển vào đảo để thuyết pháp, và chính vì thế mà Ngài cùng các Bồ Tát được vua thành Lăng Già  là Quỷ vương Rāvana (La Bà Na) đón tiếp cực kỳ trọng thể. Kinh được xem như do Đức Phật tuyên thuyết trong thời gian Ngài an trú tại đó. Cuộc đối thoại diễn ra giữa đức Phật với Bồ-tát Đại Tuệ (Mahamāti), là bậc thượng thủ của các Bồ Tát vân tập tại đây. Dù được tuyên thuyết tại một địa điểm xa xôi như Lăng-già, nhưng nếu so sánh với kinh Hoa nghiêm được tuyên thuyết một phần trên các cõi trời huyền bí thì dù sao thành Lăng-già vẫn còn có một nền tảng mang tính trần tục hơn.

Cảnh thành Lăng-già, trong bản dịch của Thực Xoa Nan Đà và Cầu Na Bạt Đà La chỉ được mô tả chung chung là “thành này được trang nghiêm bằng hoa báu cùng vô số bảo thạch, v.v. ”, nhưng qua bản dịch của Bồ Đề Lưu Chi, địa điểm thuyết pháp đó mới được mô tả một cách tuyệt diệu qua nhiều chi tiết :

Núi này đó do vô số bảo tính tạo thành, giữa các bảo tính này, ánh sáng toả rực rỡ như trăm ngàn mặt trời chiếu sáng núi vàng. Lại có vô lượng vườn hoa, cây thơm đều là rừng hương báu, gió nhẹ thổi qua làm động cành rung lá, khiến trăm ngàn loại diệu hương nhất thời lan tỏa, trăm ngàn diệu âm nhất thời cùng phát. Núi non chập chùng khuất khúc, đâu đâu cũng có tiên đường, linh thất, khám thờ, đều do vô số vật báu tạo thành; trong ngoài cùng sáng chói khiến mặt trời mặt trăng không thể hiện ra. [2]

Rāvana, vua loài Dạ xoalập tức cùng chư quyến thuộc, cưỡi xe hoa [3] đi đến chỗ của Phật để thỉnh Đức Phật vào thành. Khi đến nơi, họ xuống xe, đi nhiễu quanh đức Phật ba vòng từ trái sang phải. Rồi tất cả cùng tấu nhạc, dùng miếng ngọc nhân-đa-là màu xanh để gãy đủ các loại nhạc khí; đàn xong, họ đặt cây đàn tỳ bà (vīṇā) qua một bên, cây đàn đó được khảm bằng ngọc lưu ly thượng phẩm, đặt trong lớp vải vô giá màu vàng nhạt (priyaṅgu); họ xướng đủ các âm điệu, như câu lục (saharṣya), thần tiên khúc (riṣabha), trì địa điệu (gāndhāra), minh ý (dhāvata), cận văn (niṣāda), trung lệnh (madhyama), kê thi ca (kāiśika), v.v. lời ca dặt dìu theo các giai điệu thổ phong (grāma), nhã điệu (mūrchana), v.v. giọng hát hài hòa theo tiếng đàn tỳ bà, rồi đọc lời kệ để ca ngợi Đức Phật.

Các điệu khúc này không có trong các bản Hán ngữ, có lẽ các dịch giả thời đó xem đây là những chi tiết không quan trong, nên chỉ lướt qua, thậm chí bỏ qua, nhưng nhìn dưới góc độ văn hóa và âm nhạc, ta sẽ  thấy có nhiều điểm vô cùng thú vị. Những tên gọi trên đây được dịch theo bản (Đ) và bản (H).

Ta có thể hình dung cảnh tượng đó như một buổi đại nhạc hội với đủ thể loại nào là Tango, Rumba, nào là  Bolero, Chachacha, nào là Valse, Paso Doble, v.v. lần lượt được diễn tấu làm nền cho những điệu múa nhịp nhàng của vô số thái nữ kiều diễm để đón chào Đức Phật cùng “phái đoàn” Bồ-tát vào thành Lăng-già. Dùng âm nhạc và thái nữ múa hát để thỉnh cầu Đức Phật thuyết pháp, đó là một kịch bản chưa từng  thấy xuất hiện  trong kinh điển  Đại thừa. Và có  lẽ chưa bao giờ trong nền văn học Ấn Độ, kể cả trong các bộ sử thi Mahābhārata và Rāmāyaṇa lại có một cảnh tượng chào đón bằng ca vũ hoành tráng và lộng lẫy đến mức đó. Giống như một đại lễ hội trần gian!

Mức độ kỳ ảo của buổi thuyết pháp lại được nâng lên thêm một tầng khi Đức Phật, để đáp ứng tâm nguyện thiết tha cầu pháp của Rāvana cùng chư quyến thuộc, đã dùng thần lực để biến “Thành Lăng-già lộng lẫy, có vô số bảo thạch trang nghiêm, có các đỉnh núi vây quanh, các núi này tươi mát, đẹp đẽ và có lưới ngọc che phủ.” thành vô số thành Lăng-già  được trang nghiêm bằng châu ngọc và vô lượng các vật bằng bảo châu lộng lẫy. Trên mỗi đỉnh núi đều hiện ra một đức Phật và Rāvana đứng đó, cùng với toàn thể pháp hội và Bồ-tát Đại Tuệ đang thỉnh cầu Đức Phật thuyết pháp; tất cả các quốc độ đều hiện ở đó, và nơi mỗi quốc độ đều có một bậc Đạo sư dùng diệu âm để thuyết về cảnh giới thánh trí  tự chứng.

Rồi sau đó bậc Đạo sư cùng chư Bồ-tát  biến mất trong hư không, để lại Rāvana đứng một mình trơ trọi trong lâu đài, khiến vị vua này hoát nhiên đại ngộ pháp tính (Dharmatā) cuả vạn pháp đều do tâm biến hiện.

Tiếp theo đó lại diễn ra một màn trình diễn âm nhạc kỳ diệu nữa giữa một không gian cực kỳ hoa lệ. Lúc bấy giờ, chúa tể thành Lăng-già, được Đức Thế Tôn cho phép, bèn từ chỗ ngồi trên đỉnh núi có trân bảo sáng rực rỡ như hoa sen báu bạch tịnh mà đứng dậy, có vô số thiên nữ vây quanh, với đầy đủ các loại hoa, tràng hoa, hương thơm, phan lọng, cờ xí, vòng khuyên, vương miện, khăn quấn đầu tiara lộng lẫy tuyệt vời chưa tùng có, chưa từng nghe bỗng hiện raâm nhạc được cử lên vang lừng hay hơn tất cả các thứ nhạc mà Trời, Rồng (Nagā), Dạ Xoa (Yaksha), Càn-thát-bà (Gandharva), RākshakaKhẩn Na La (Kinnara), Ma Hầu La Già (Mahoraga) và chúng sinh đã từng nghe; các nhạc cụ được tạo ra sánh ngang với bất cứ mọi thứ có trong cõi dục giới, và các nhạc cụ thù thắng như vậy cũng được nhìn thấy ở các cõi Phật; bao quanh Đức Thế Tôn và các Bồ-tát là tấm lưới bảo châuvô số cờ xí phan lọng đủ loại được trương ra trong hư không, cao bằng bảy cây sa-la (talanga) để cung nghinh đức Phật; từ trên trời cao phẩm vật cúng dường rắc xuống nhiều như mây trời và âm nhạc tấu lên vang lừng, chúa tể thành Lăng-già ngồi trên đỉnh núi trân báu có những tòa sen bằng bảo châu trang nghiêm. Các tòa sen này rực rỡ chói lọi chỉ kém ánh mặt trời.  

Cảnh tượng Đức Phật dùng lực để biến hóa một đỉnh Lăng-già thành ra vô số đỉnh Lăng-già tương tự thật chẳng khác nào trò chơi kính vạn hoa. Một đối tượng sẽ hóa thân thành vô số các đối tượng khác nhau, như khi ta bước vào một căn phòng làm bằng những tấm gương phản chiếu. Đây là cảnh tượng minh họa sinh động cho cảnh giới  “tương tức tương nhập”, “viên dung vô ngại”, “nhất thức nhất thiết”, v.v.  trong tư tưởng Hoa nghiêm. Tông Hoa nghiêm thường dùng những tấm gương làm thí dụ để minh giải tư tưởng ấy. Thử dựng một căn phong nhỏ với  tám tấm gương là những bức vách ở tám hướng, thêm một tấm ở phía trên, một tấm ở phía dưới, và ở giữa ta đặt một ngọn đèn. Mỗi tấm gương phản chiếu một ngọn đèn, cùng chín tấm gương kia. Đó cũng là cảnh tượng trên đỉnh  Lăng-già qua thần lực biến hóa của Đức Phật.

Chính vì không lưu ý đến điểm này mà cả hai bản dịch của Cầu Na Bạt Đà La và Thực Xoa Nan Đà có một điểm nhầm lẫn trong chương 2, là chương bắt đầu đi vào phần chính kinh. Cả hai bản đều dịch :

爾 時 大 慧 菩 薩 與 摩 帝 菩 薩 。俱 遊 一 切 諸 佛 剎 土 。承 佛 神 力 。從 坐 而 起 偏 袒 右 肩 右 膝 著 地 合 掌 恭 敬 。以 偈 讚 曰 : ( Lúc bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ cùng các Bồ-tát Đại Tuệ khác , vốn đã từng cùng nhau dạo chơi tất cả các cõi Phật, nương thần lực của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, vạch vai áo phải, quì gối phải xuống đất, chắp tay cung kính, dùng kệ tán thán Thế Tôn).

Cả hai bản dịch nổi tiếng này đều ghi là  Bồ-tát Đại Tuệ và Bồ-tát Ma Đế, tức tất cả hai vị, nhưng trong nguyên văn Phạn ngữ không có từ Ma Đế (Mati), mà vẫn là Đại Tuệ (Mahāmati).

Bản (S) dịch cũng không có Bồ-tát Ma Đế :

At that time Mahamati the Bodhisattva-Mahasattva who had visited all the Buddha-lands, together with all the Bodhisattvas, …” (Lúc bấy giờ, Bồ-tát Ma-ha-tát Đại Tuệ, vốn đã dạo chơi tất cả các cõi Phật, liền cùng tất cả những vị Bồ-tát khác…;

Bản (B) là dịch sát nguyên bản Phạn ngữ :

爾 時 聖 者 大 慧 菩 薩 與 諸 一 切 大 慧 菩 薩 。俱 遊 一 切 諸 佛 國 土 …” (Lúc bấy giờ, bậc giả thánh giả Bồ Tát Đại Tuệ cùng tất cả những Bồ-tát Đại Tuệ khác đã cùng nhau dạo chơi tất cả các cõi Phật…),

Bản dịch tiếng Việt của cư sĩ Tuệ Khai: “Lúc bấy giờ, Thánh giả Đại Tuệ Bồ-ttát cùng tất cả những Bồ tát đại tuệ đều du hành ở tất cả đất nước chư Phật…,”[4] nhưng “Bồ-tát Đại Tuệ” ở đây lại được hiểu theo nghĩa là những “Bồ-tát có trí tuệ vĩ đại”, chứ không phải là tên riêng. Chỉ có bản (H) dịch sát nguyên tác Phạn ngữ và lý giải điểm này cực kỳ lý thú: do trước đó Đức Phật dùng thần lực biến hóa ra vô số pháp hội của thành Lăng-già để điểm hóa Rāvana về “vạn pháp duy tâm”, trong mỗi pháp hội đó đều có một Bồ-tát Đại Tuệ thỉnh pháp, nên tất cả những Bồ-tát Đại Tuệ ở chương này đều là một Đại Tuệ duy nhất, được biến hóa ra từ một “bản gốc Đại Tuệ”. Nhất thiết tức nhất!

Kịch bản này dường như không lặp lại lần thứ hai trong toàn bộ kinh điển Phật giáo. Và có một chi tiết lý thú là các Đức Như LaiỨng CúngChánh Đẳng Giác từ vô lượng kiếp trong trong quá khứ vẫn luôn ghé về thành này để giảng thuyết cùng một nội dung là cảnh giới thánh trí tự chứng. Ở đây, ta tưởng chừng như gặp lại tư tưởng Quy Hồi Vĩnh Cửu của Nietzche.

Mối quan hệ giữa chương mở đầu kỳ lạ này với nội dung kinh Nhập Lăng-già vẫn đang là một huyền án đối với các nhà nghiên cứu Phật họcChưa bao giờ kinh điển Phật giáo lại mô tả âm nhạc cặn kẽ và hào hứng đến thế. Phải chăng dùng âm nhạc để mở màn cho việc thuyết pháp là điểm lôi cuốn các đoàn truyền giáo trong quá khứ? Hay nó còn ẩn chứa một mật ý nào đó mà những vị Bồ-tát viết kinh muốn gởi gắm lại cho chúng ta? 

Ghi chú :

[1]   Những đoạn viết và trích dẫn liên quan đến nội dung kinh Nhập Lăng-già trong bài ày đều dựa vào ba bản dịch dưới đây: (1) The Lankavatara Sutra, a Mahayana text, translated from the Sanskrit by Daisetz Teitaro Suzuki, The Prajñā Press, 1978; viết tắt là bản (S); (2). Nhập Lăng-già kinhPhạn bản tân dịch 入 楞 伽 經 梵 本 新 譯, Đàm Tích Vĩnh dịch, Toàn thư văn hóa hữu hạn công ty, 2005; viết tắt là bản (Đ); (3). Nhập Lăng-già kinh 入 楞 伽 經 (Phạn Hán đối chiếu), Hoàng Bảo Sinh dịch, Trung Quốc Xã hội Khoa học xuất bản xã, 2018; viết tắt là bản (H).

[2]. 彼 山 種 種 寶 性 所 成 。 諸 寶 間 錯 光 明 赫 炎 。 如 百 千 日 照 曜 金 山 。 復 有 無 量 花 園 香 樹 皆 寶 香 林 。 微 風 吹 擊 搖 枝 動 葉 。 百 千 妙 香 一 時 流 布 。 百 千 妙 音 一 時 俱 發 。 重 巖 屈 曲 處 處 皆 有 仙 堂 靈 室 龕 窟 。 無 數 眾 寶 所 成 。 內 外 明 徹 日 月 光 暉 不 能 復 現 。(Nhập Lăng-già kinh 入 楞 伽 經, Bồ Đề Lưu Chi 菩 提 留 支, CBETA, 大 正 新 脩 大 正 藏 經, Vol. 16, No. 672.

[3]   Xe hoa (pauṣpakam vimānam) chỉ loại xe thần bay trong không trung, được trang trí bằng các loại hoa trời. Vimānam thường được dùng để chỉ cung điện, nên bản Thực Xoa Nan Đà dịch là “hoa cung điện 花 宮 殿”, nhưng nó cũng được dùng để chỉ loại xe bay. Pauṣpakam là tên xe. Xe hoa ở đây giống như các loại loan xa (xe loan) mà thần tiên dùng để cưỡi trên không, trong truyện cổ Trung Quốc.

[4]   https://thienphatgiao.org/kinh-nhap-lang-gia-tue-khai-dich/2/

(huynhngocchien.com)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1640)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1571)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1493)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1076)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1465)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1409)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1324)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1376)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1709)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1968)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1433)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1090)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1427)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2011)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1467)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1550)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1386)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2900)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1371)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1406)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1714)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1677)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1630)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1465)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2635)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1600)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1603)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1404)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1422)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1610)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1549)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1442)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1425)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1515)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2197)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1544)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1505)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1619)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1833)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1530)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1406)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1664)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1416)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1694)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2375)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1467)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1949)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1678)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1754)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1614)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1951)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1681)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1435)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1726)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1576)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1541)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1333)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1296)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1523)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1643)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant