Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Học Thuyết Duyên Khởi Qua Tư Tưởng Nhứt Hữu Bộ

14 Tháng Mười Hai 202209:23(Xem: 1953)
Học Thuyết Duyên Khởi Qua Tư Tưởng Nhứt Hữu Bộ
Học Thuyết Duyên Khởi Qua Tư Tưởng Nhứt Hữu Bộ

Thích Thường Tịnh

Triết Lý Hành Động Trong Đạo Phật


Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,1 điều này có trái ngược với thuyết Duyên Khởi được đức Phật đã chứng ngộ dưới cội Bồ Đề hay không? Lại cũng có thuyết quan niệm rằng “Tất cả pháp đều không”2 thì có rơi vào thuyết “đoạn diệt” của ngoại đạo không? Tại sao lại có sự mâu thuẫn trong Phật giáo như thế?

Nguyên nhân chính tạo ra sự mâu thuẫn này, có nguồn gốc từ lúc đức Phật còn tại thế, khi Man Đồng Tử hỏi Phật về 14 vấn đề vô ký “Thế giới hữu thường hay vô thườngthế giới hữu biên hay vô biên, sinh mạng tức là thân hay sinh mạng khác thân, Như Lai tuyệt diệt hay Như Lai không tuyệt diệt, hay Như Lai vừa tuyệt diệt vừa không tuyệt diệt, hay Như Lai cũng không phải tuyệt diệt, cũng không phải không tuyệt diệt…?”3đức Phật không trả lời, vì những vấn đề này không đem lại hạnh phúc thật sự cho người hỏi. Chính vì lẽ đó mà Phật giáo về sau gây sự tranh luận về những vấn đề này rất nhiều. Vì thế, các bộ phái đã cố gắng đưa ra những học thuyết riêng mình, nhằm giải đáp những thắt mắc của xã hội về vấn đề này, nhưng chưa học thuyết rốt ráo để chấm dứt mọi tranh cãi.

Duyên khởi trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy

Đức Thích Ca Mâu Ni giác ngộ dưới cội Bồ Đề với chân lý tối thượng. Ngài đã thấy rõ sự vận hành của các pháp là do Duyên sanh, cũng bởi duyên ấy nếu thiếu đi các pháp trở thành hoại diệt. Bên cạnh đó, đức Phật thấy rõ những khổ đau của chúng sanh là do ‘chấp’ các pháp là thật, rồi bám víu cái thật đó nên khổ đau, sự chấp thật có đó đức Phật gọi là Vô minhGiáo lý Duyên khởi được đức Phật chứng ngộ là sự duyên sinh hòa hợp kết tụ mà thành, chúng nương tựa ảnh hưởng lẫn nhau. Bởi vì duyên sinh nên không có chủ thể nhất định, không Duyên nào là chính và duyên nào trợ phụ, mà các duyên ấy đều có vai trò quan trọng nhất định. Như trong kinh Trung A Hàm đã định nghĩa về Duyên khởi“Do cái này có nên cái kia có, vì cái này khởi nên cái kia khởi, duyên vô minh nên có hành,v.v… cho đếnduyên sanh nên có già chết và tụ tập thuần một khối khổ lớn và thuần một khối khổ lớn diệt”4. Ở đây, “cái này có” chỉ cho pháp được thành tựu, “cái kia có” là chỉ cho pháp này trước khi thành tựu đã tồn tại một pháp trước nó, ý muốn nói là cái này thành tựu là do nhiều cái thành tựu trước nó hợp lại. “Cái này khởi” là do có cái kia cùng khởi đây là đứng về mặt ‘vật chất’ mà trình bày. Còn đứng về ‘tâm thức’ thì khổ đau của một con người là do vô minh vì vô minh có hành, vì hành mà có thức,v.v… Khi duyên không đủ hay kết thúc thì nó sẽ tan rã, cũng như; “Có nhân, có duyên để thế gian tập khởi; có nhân, có duyên cho sự tập khởi của thế gian. Có nhân, có duyên để thế gian diệt; có nhân, có duyên cho sự diệt tận của thế gian”5. Qua đây khẳng định một điều, đức Phật đã tự chứng biết các pháp đều do nhân duyên sinh khởi và nhân duyên đoạn diệt, nó vận hành theo thể tự nhiên không ai áp đặt hay tạo ra. Cả thế gian và cho đến tâm thức của con người cũng đều theo định luật sanh diệt này mà vận hành. Tại sao lại như vậy? là vì, nó không có tự tánh hay tự ngã thường hằng nên sự tồn tại của nó sẽ hiện hữu trong một thời gian nhất định.

Bởi lẽ, vì các pháp do Duyên sinh cho nên vô thường chi phối“Sắc là vô thường. Nhân và duyên sanh ra các sắc, chúng cũng vô thường. Vậy, các sắc được sanh ra từ nhân và duyên vô thường, làm sao có thể là thường được?”6Vì vậy, các pháp vốn là vô thường nên không có một thực thể hằng tồn bất biến, không có một thực ngã vĩnh hằng đó gọi là Vô NgãChúng ta cần nhận thức các pháp là như vậy, để xa rời vọng chấp đem đến sự an vui như đức Phật đã dạy.

Thuyết Duyên khởi hữu bộ

Tuy thuyết Duyên khởi được đức Phật dạy là “Cái này có cho nên cái kia có, cái này không cho nên cái kia không,v.v…”. Để áp dụng chung cho quy luật vận hành sanh diệt của các pháp, trong đó có pháp về tâm lý và pháp về vật lý. Những Pháp thuộc về tâm lý đức Phật dạy tiếp về thuyết 12 nhân duyên“duyên vô minh nên có hành, duyên hành nên có thức... đó gọi là vô minh”.7 Đoạn kinh này được đức Phật chỉ cho chiều thuận và chiều nghịch của 12 nhân duyên, giúp chúng sanh biết cách đối trị chuyển hóa khổ đau, đưa đến an lạc giải thoát.

Nhưng về pháp về vật lýhiện tượng thì cần giải quyết như thế nào? Nếu chỉ nói “Cái này có cho nên cái kia có, cái này không cho nên cái kia không,v.v…” thì chung chung quá, nên Hữu bộ dựa trên nền tảng thuyết Duyên khởi của Phật nói mà hình thành học thuyết 6 nhân, 4 duyên, để giải quyết các vấn đề vật chất. Qua đó cho thấy các nhà Hữu bộ chú trọng vật chất hơn là tinh thần, bởi lẽ cũng do hoàn cảnh xã hội đương thời mà kiến lập học thuyết này. Luận Đại Tỳ Bà Sa có đoạn chứng minh lý do thành lập luận thuyết này; “問:何故作此論?答:為止愚於因緣法執因緣性非實有 者意,顯因緣法體性 實有故作斯論”8, dịch nghĩa: “Hỏi: Lý do tại sao hình thành lý thuyết này? Đáp: Vì mục đích ngăn ngừa kẻ ngu muội cố chấp về luật nhân duyên và cho rằng tánh chất của nhân duyên là chẳng có thật, do vậy làm sáng tỏ thể tánh của nhân duyên là thật có, cho nên thành lập lý thuyết này”. Thứ nhất là ngăn ngừa kẻ ngu muội cố chấp cho là nhân duyên thật có, thứ hai là khẳng định thể tánh của nhân duyên là thật có nên thành lập thuyết này. Vì để làm rõ vấn đề cũng như cách nào để các pháp tác thành, thì Hữu bộ đưa ra học thuyết 6 nhân, 4 duyên, chúng ta sẽ làm rõ từng nhân duyên.

Thuyết 6 nhân được Luận Đại tỳ bà sa đề cập là: “說六因義 皆不盡故,若作盡理無餘說者,應作是說;云何相應因? 謂:一切心、心所法;云何俱有因?謂:一切有為 法;云何 同類因?謂:一切過去、現在法;云何遍行因?謂:一切過 去、現在遍行隨眠,及彼相應俱有法;云何異熟 因?謂:一 切不善及善有漏法;云何能作因?謂:一切法”9, dịch nghĩa: “Thuyết 6 nhân có ý nghĩa không cùng tận, khó có ai có thể lý giải được hết ý nghĩa của nó, do vậy chỉ đơn giản giải thích như thế này. Cái gì gọi là ‘tương ưng nhân’? Là tất cả những pháp thuộc về tâm và tâm sở; Cái gì gọi là ‘câu hữu nhân’? Là tất cả những pháp thuộc về hữu vi; Cái gì gọi là ‘đồng loại nhân’ Là tất cả pháp thuộc về quá khứ cũng như hiện tại; Cái gì gọi là ‘biến hành nhân’? Là tất cả pháp thuộc quá khứ và hiện tại biến hành với tùy miên, và nó có liên hệ đến ‘tương ưng nhân’ và ‘câu hữu nhân’; Cái gì gọi là ‘Dị Thục nhân’ Là những pháp thuộc về thiện bất thiện và hữu lậu; Cái gì gọi là ‘năng tác nhân’? Là tất cả pháp”.

Rất rõ ràng và chi tiết, ở đây 6 nhân (1. Câu hữu nhân, 2. Đồng loại nhân, 3. Biến hành nhân, 4. Tương ưng nhân, 5. Dị thục nhân, 6. Năng tác nhân), từng loại nhân mà có sự phân chia từng pháp để phù hợp, chỉ riêng “Năng tác nhân” dùng cho tất cả thôi. Về đại thể:

1. Năng tác nhâncó nghĩa “Trừ tự, dư năng tác” tức là, trừ cái tự thể ra, còn đối với hết thảy các pháp khác đều gọi là năng tác. Tất là những điều kiện tư trợ về mặt tích cực để thành lập nhân này. Vì hữu bộ cho tự mình không thể sanh ra mình, trừ mình ra còn tất cả pháp bên ngoài đều là duyên.

2. Câu hữu nhâný nghĩa “hỗ vi quả”, tức là điều kiện hỗ tương để thành lập một pháp. Chẳng hạn, khi chủ quan và khách quan phát sinh quan hệ, thì chủ quan là nguyên nhân của khách quan, khách quan là nguyên nhân của chủ quan, cả hai dựa vào nhau mà thành lập mọi hiện tượngHữu bộ thì cho rằng “nhân quả đồng thời” cũng được coi là đặc trưng của nhân quả.

3. Đồng loại nhâncó nghĩa “tương tự” tức là khi nhân và quả cùng một tính chất thì nhân ấy được gọi là đồng loại nhân. Hết thảy không những chỉ sát na diệt, mà đồng thời cùng một trạng thái đó luôn luôn kế tục, đấy chính là sự tương tục của đồng loại nhân và quả của nó (đẳng lưu quả).

4. Tương ứng nhâncó nghĩa “quyết định tâmtâm sở đồng y” Nhân này thuyết minh cái quy định liên tưởng của những hoạt động tâm lý của ta. Khi một tâm niệm sinh khởi, tất phải có những tác dụng tâm lý theo tâm đó mà phát khởi.

5. Biến hành nhânnghĩa là chỉ cái phiền não mạnh mẽ nhất, là nguyên nhân cho tất cả mọi phiền não của chúng ta sanh khởi. Như mọi chúng sanh đều có phiền nãophiền não là yếu tố phổ biến của chúng sanh. Nhân này được đề cập đến ba thời, cùng biến hành với tùy miên, và nó có liên hệ đến “tương ưng nhân và câu hữu nhân”.

6. Dị thục nhân (báo nhân), chính là tên gọi khác của thiện nghiệpác nghiệp tức là cái nhân dẫn đến kết quả sướng hay khổ trong tương lai. Theo nghĩa hẹp thì thiện nhân sinh thiện quảác nhân sinh ác quả, và Dị thục nhân này chỉ về luật nhân quảLuận Câu xá, quyển 6, các vị luận sư giải thích là “khác loại mà chín - dị loại nhi thục”.

Về 4 duyên:「有四緣:一、因緣;二、等無間緣;三、所緣緣;四、增上緣」10, dịch nghĩa “Có 4 duyên: 1. Nhân duyên; 2. Đẳng vô gián duyên; 3. Sở duyên duyên; 4. Tăng thượng duyên”. Phần này được trình bày chi tiết trong luận Câu Xá quyển 7, phẩm 2 Phân biệt Căn, được tóm tắt như sau:

1. Nhân duyênchỉ cho bản thân sự vật có khả năng sinh ra cái khác. Ví dụ như hạt giống có khả năng sinh ra mầm cây. Như vậy, hạt giống là nhân duyên của mầm cây.

2. Vô gián duyênám chỉ cho những loại duyên liên tục, không bị gián đoạn. Cũng như tâm thức chúng ta luôn luôn sinh diệt, không một phút nào dừng nghỉ, không một khắc nào ở trạng thái của cùng một tâm. Ví dụ như hít thở, ăn uống là điều kiện trợ giúp cho sự sống con người. Như vậy, sự tương tục của tâm giữa khoảng tiền niệm và hậu niệm không thể không có cái tương tục.

3. Sở duyên duyên (Cảnh giới duyên), chủ yếu chỉ cho ý nghĩa khách quan, tức là thâu tóm tất cả những đối tượng của tâm (12 xứ). Theo tâm lý học Phật giáo thì tâm sinh khởi tất phải nhờ vào cảnh, nếu không có cảnh thì tâm không sinh. Đứng ở điểm sinh khởi của tâm mà nói thì, cảnh giới duyên là duyên rất quan trọng.

4. Tăng thượng duyên là chỉ cho tất cả các pháp, trừ tự thể ra, chỉ cần khiến cho một việc gì đó được thành tựu, bất luận là tích cực hay tiêu cực mà pháp đó được tăng trưởng gọi là duyên tăng thượng. Ví dụ như các loại phân bón, nước, ánh sáng… là trợ duyên cho sự trưởng thành của cây lúa, các trợ duyên này gọi là “Tăng thượng duyên”. Thông thường, khi nói nhân là có ý chỉ cái nhân gần (thân nhân), và khi nói đến duyên là chỉ cho cái nhân xa (sơ nhân). Do đó, Phật giáo vì coi trọng luật nhân quả, nên không đặt nặng ở duyên mà lại đặt nặng ở nhân. Trái lại, trong A-tỳ-đạtma, Duyên được coi là trọng yếu hơn Nhân.

Qua nội dung cũng như ý nghĩa của thuyết 6 nhân, 4 duyên, cho chúng ta thấy rằng các nhà Hữu bộ thành lập học thuyết này nhằm củng cố học thuyết “Thật Hữu” của mình và lý giải sự hình thành các pháp ở thế gian, tức là bằng những yếu tố “Cực Vi” mà có thể kết hợp lại thành những hiện tượng vật thể, chúng ta có thể thấy, nghe, ngửi, nếm, và cảm xúc. Đây là một trong những lý thuyết cơ bản của các nhà Hữu bộ, các luận sư của phái này không chỉ có quan điểm: “Thể tánh của các pháp là thật có” mà còn cho rằng thuyết 6 nhân, 4 duyên này cũng thật có.

Tóm lạisở dĩ đức Phật không trả lời là ‘có hay không’ bởi sợ chúng sanh chấp mà tu tập sai lầm không có kết quả. Kỳ thật, Ngài đã dạy rõ ràng trong kinh điển về duyên khởi từ khi chuyển bánh xe chánh pháp“Do cái này có nên cái kia có, vì cái này khởi nên cái kia khởi, duyên vô minh nên có hành… cho đếnduyên sanh nên có già chết và tụ tập thuần một khối khổ lớn và thuần một khối khổ lớn diệt”11, nhưng vì đời sau ngộ nhận mới cho là có và không. Kỳ thật, Duyên sinh là không thật có, cũng chẳng trống rỗng như Hư không.

Đứng về mặt lý luận, thì Hữu bộ lý luận phân tích cực kỳ sắc bén, phá vỡ đi kiến chấp của Độc tử bộ và Hóa địa bộhọc thuyết của Hữu bộ đưa ra đến tận bây giờ khoa học chứng minh là đúng. Hữu bộ lý luận về mặt vật chất, vì thế Hữu bộ đóng vai trò rất quan trọng trong Phật giáo, những bộ luận cũng như tư tưởng của Hữu bộ vẫn là điểm để cho người đời sau nghiên cứu và học hỏi.

 Về nhận thức về chân lý đức Phật, tuy là Hữu bộ nhận thức về đặc tính duyên khởi có theo tính máy móc nhưng đã chia chẻ các pháp duyên sinh tuy nhiều nhưng không ra khỏi 6 nhân, 4 duyên. Qua đó cho thấy sự nhận thức của các luận sư Hữu bộ vượt cả không gian và thời gian, đến tận ngày nay ở chừng mực nào đó vẫn còn giá trị.

 


1. Tư tưởng của Nhất thiết hữu bộ - “tam thế thật hữupháp thể hằng tồn”.

2. Tư tưởng kinh điển hệ Bát Nhã – “nhứt thiết pháp giai không”.

3. Tuệ Sỹ (dịch), Kinh Trung A-Hàm, Tập 2, 221. “Kinh Tiễn Dụ”, Nxb. Tôn Giáo, 2008, tr. 633.

- Thích Hạnh Bình, “Những vấn đề cốt lõi trong kinh Trung A-Hàm”, Nxb. Hồng Đức, 2018, tr. 185.

4. Sa Môn Thích Tịnh HạnhĐại Tập 5 - Bộ A-Hàm V - Trung A-Hàm Biệt Dịch & Kinh Tạp A-Hàm Số 1, Tạp A-Hàm Quyển 15, Kinh 365. “Thuyết Pháp”, Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc – Taiwan, 2000, tr. 1041.

5. Sa Môn Thích Tịnh HạnhĐại Tập 5 - Bộ A-Hàm V - Trung A-Hàm Biệt Dịch & Kinh Tạp A-Hàm Số 1, Tạp A - Hàm Quyển 2 - Kinh 33: “Phi Ngã”, Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc – Taiwan, 2000, tr. 588.

6. Sđd; Tạp A-Hàm Quyển 1 - kinh 1. “Vô Thường”, tr. 528.

7. Tạp A Hàm, kinh số 283, “Chúng Thọ”, sđd, tr. 956-958.

8. “A tỳ đạt ma đại tỳ bà sa luận”,《阿毘達磨大毘婆沙論》卷196, (CBETA, T27, no. 1545, p. 982b4-6)

9. “A tỳ đạt ma đại tỳ bà sa luận”《阿毘達磨大毘婆沙論》卷16:(CBETA, T27, no. 1545, p. 80a16-22)

10. “A tỳ đạt ma thức thân túc luận”, 《阿毘達磨識身足論》卷3:(CBETA,

T26, no. 1539, p. 547b22-24)

11. Sa Môn Thích Tịnh HạnhĐại Tập 5 - Bộ A-Hàm V - Trung A-Hàm Biệt Dịch & Kinh Tạp A-Hàm Số 1, Tạp A-Hàm Quyển 15, Kinh 365. “Thuyết Pháp”, Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc – Taiwan, 2000, tr. 1041.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2671)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6147)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3063)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3111)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3312)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3245)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3306)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4562)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2737)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5221)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3877)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3849)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3211)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4145)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5053)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3519)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6749)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3971)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3225)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3106)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2968)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5870)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4638)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3502)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2903)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3315)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4431)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5730)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6643)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3730)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4541)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4615)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3978)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3411)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4633)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6061)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5848)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3642)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4693)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4464)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4532)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4273)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4601)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8224)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3927)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5727)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5210)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6857)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6183)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 5998)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5808)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6302)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6793)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4979)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5575)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6399)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3794)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5426)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10476)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 6078)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant