Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chân Như

22 Tháng Mười Hai 202213:02(Xem: 1850)
Chân Như

CHÂN NHƯ

Nguyễn Thế Đăng

 
sen 6



Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.

Quá trình học và hành được đi theo thứ tự trong các kinh là như sau. Trước tiên, nghe, đọc, học, nghiên cứu gọi là VănTiếp theo là suy nghĩtư duybiện luận là . Và cuối cùng đưa vào thực hành gọi là Tu. Chính trong quá trình thực hành (Tu) này, người ta có những bước nhảy vượt khỏi ý thức lý luận vào Thật tướng Bát nhã.

Phẩm Đại Như này tương đương với hai phẩm Chân Như và Như Lai thứ 15, Hội thứ 5, Kinh Đại Bát nhã ba la mật đa 600 quyển do Pháp sư Huyền Trang dịch. Và cũng tương đương với phẩm Chân Như thứ 16 của Kinh Phật Mẫu xuất sinh tam pháp tạng Bát nhã ba la mật đa do Pháp sư Thi Hộ dịch.

Chữ Như trong Kinh Đại Bát nhã của ngài Cưu Ma La Thập thì được ngài Thi Hộ và ngài Huyền Trang dịch là Chân Như. Chẳng hạn phẩm Đại Như được dịch là phẩm Chân Như. Một thí dụ khác, “Như Lai tướng Như tức là tất cả pháp tướng Như” được dịch là, “Như Lai Chân Như, tất cả pháp Chân Như, cùng một Chân Như, không hai, không khác”. Như thế bởi vì tathata có nghĩa là Như, tướng Như, tánh Như, Chân Như.

Phẩm Đại Như bắt đầu bằng:

Chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc rải hương bột chiên đàn và hoa sen xanh, đỏ, hồng, trắng cúng dường Đức Phật rồi đảnh lễ mà thưa rằng: Giác ngộ vô thượng của chư Phật rất sâu thẳm, khó thấy, khó hiểu, chẳng thể suy nghĩ mà biết được, là vi diệu tịch diệt, chỉ bậc trí mới biết được, ngoài ra tất cả thế gian chẳng thể tin. Vì sao thế? Vì trong Bát nhã ba la mật sâu xa nói thế này: Sắc tức là Bát nhã ba la mậtBát nhã ba la mật tức là sắc, cho đến nhất thiết chủng trí tức là Bát nhã ba la mậtBát nhã ba la mật tức là nhất thiết chủng tríSắc tướng Như, Bát nhã ba la mật tướng Như là một Như, không hai không khác. Cho đến nhất thiết chủng trí tướng Như, Bát nhã ba la mật tướng Như, là một Như, không hai, không khác.

Đức Phật dạy: Đúng như vậy. Này các Thiên tử! Sắc tức là Bát nhã ba la mậtBát nhã ba la mật tức là sắc. Cho đến nhất thiết chủng trí là Bát nhã ba la mậtBát nhã ba la mật là nhất thiết chủng trí.

Sắc tướng Như, cho đến Nhất thiết chủng trí tướng Như là một Như, không hai không khác” (Phẩm Đại Như thứ 54).

Bát nhã ba la mật là trí huệ thấu suốt rốt ráo tướng Như hay Chân Như của sắc thọ tưởng hành thức. Tướng Như hay Chân Như được Phật nói ngay sau đoạn trên:

Đây gọi là tướng rất sâu của các pháp, chính là không có hai pháp. Ví như hư không rất sâu thẳm nên pháp này rất sâu thẳm, vì Như rất sâu thẳm nên pháp này rất sâu thẳm, vì pháp tánhthật tế rất sâu thẳm, không thể nghĩ bàn, vô biên nên pháp này rất sâu thẳm. Vì không đến không đi rất sâu thẳm nên pháp này rất sâu thẳm, vì chẳng sanh chẳng diệt, không dơ không sạch, không trí không đắc rất sâu thẳm nên pháp này rất sâu thẳm”.

Tướng Như hay Chân Như là pháp tánhbản tánh của mọi sự. Chân Như hay pháp tánhthật tế sâu thẳm vì chỉ có trí huệ Bát nhã sâu thẳm (ba la mật) mới thấy biết được. Và Chân Như đồng nhất với tánh Không, “không đến không đi, chẳng sanh chẳng diệt, không dơ không sạch, không trí không đắc”.

Chân Như là chân lý tuyệt đối, là thực tại tuyệt đối, vượt ngoài - nghĩa là không ô nhiễm bởi - sự đến đi, sanh diệt, dơ sạch, trí đắc của không gian và thời gian. Như thế, Chân Như là “Pháp thân của tất cả chư Phật”.

Ngài Tu Bồ Đề nói: Này các Thiên tử! Các ngài nói Tu Bồ Đề là Phật tử, tùy Phật sanh, thế nào là tùy Phật sanh?

Vì tướng Như nên Tu Bồ Đề tùy Phật sanh. Tại sao thế? Vì Như Lai tướng Như chẳng đến chẳng đi, Tu Bồ Đề tướng Như cũng chẳng đến chẳng đi, thế nên Tu Bồ Đề là tùy Phật sanh.

Lại nữa, Tu Bồ Đề từ xưa đến nay vẫn tùy Phật sanh. Vì sao thế? Vì Như Lai tướng Như tức là tất cả pháp tướng Như, tất cả pháp tướng Như tức là Như Lai tướng Như. Trong tướng Như này cũng không có tướng Như, thế nên Tu Bồ Đề là tùy Phật sanh”.

Như Lai là tướng Như, chẳng đến chẳng đi, Tu Bồ Đề là tướng Như, cũng chẳng đến chẳng đi. Như Lai và Tu Bồ Đề đồng một tướng Như, đồng một Chân NhưChân Như là thật tướng của Như Lai và của Tu Bồ Đề. Thấy được thật tướng Chân Như của Như Lai và của Tu Bồ Đề nên ngài Tu Bồ Đề giải thoát, là vị A La Hán. Ngài thấy biết Chân Như của tất cả các pháp, của chính mình và của Như Lai, nên ngài sanh ra từ Chân Như, tùy Chân Như sanh. Tùy Chân Như sanh là “tùy Phật sanh”, như thế, Chân Như chính là Phật.

Hơn thế nữa, “Như Lai là tướng Như tức là tất cả pháp là tướng Như, tướng Như này cũng không có tướng”, nghĩa là tất cả các bậc giác ngộ, tất cả các vị thánh và tất cả các chúng sanh, tất cả các pháp hiện hữu đồng một Chân Như. Tất cả thánh phàm, tất cả thế giới là Chân Như, đây là các thấy biết rốt ráo của Phật, thế giới chúng sanh sanh tử không còn, chỉ có Niết bàn một vị Chân Như.

Tham thiền (contemplate) về Chân Như để tương ưng, thấy được phần nào thực tại Chân Như và an trụ trong đó để tất cả trở lại thành Chân Như, đây là con đường giải thoát giác ngộ của đạo Phật.

“Như Lai Chân Như tức là tất cả pháp Chân Như”. Tất cả mọi pháp hiện hữu là Chân Nhưthật tướng của tất cả các pháp thế gian là Chân Như. Thấy như vậy là đang đi trên con đường giải thoát giác ngộ. Không thấy được như vậy thì vẫn đi trên con đường thế gian sanh tử.

Chúng ta không thấy tướng Như hay Chân Như của tất cả hiện tượng, của tất cả pháp mà thấy những sự vật riêng lẻ tách biệt nhau. Đó là do tâm phân biệt chia tách thực tại thành những phần mảnh tách biệt từ đó các phiền não tham, sân, si, kiêu mạn, đố kỵ… tha hồ sanh khởithao túng toàn bộ cuộc đời chúng ta.

Để có được sự hài hòa, hợp nhất với thế giới, với người khác, chúng ta phải thấy thật tướng Chân Như của tất cả mọi sự. Để tiếp xúc, thấy được phần nào thực tại Chân Nhưđạo Phật dạy chúng ta ba pháp tịnh hóa tâm là Thiền định (Chỉ), Thiền quán (Quán) và Thiền định Thiền quán đồng thời (Chỉ Quán đồng thời). Ngoài ra các hành động (Hạnh) trong đời sống hàng ngày cũng phải tìm cách tương ưng, hòa điệu với Chân Như.

Lại nữa, Như Lai tướng Như là tướng thường trụTu Bồ Đề tướng Như cũng là tướng thường trụNhư Lai tướng Như không hai, không khác, Tu Bồ Đề tướng Như cũng không hai, không khác. Thế nên Tu Bồ Đề là tùy Phật sanh. Như Lai tướng Như không có chỗ ngại, tất cả pháp tướng Như cũng không có chỗ ngại, đây là Như Lai tướng Như cùng tất cả pháp tướng Như là một Như, không hai, không khác. Tướng Như này vô tác, trọn chẳng có gì chẳng Như, nên tướng Như này là Như duy nhất, không hai không khác. Thế nên Tu Bồ Đề là tùy Phật sanh.

Như Lai tướng Như tất cả chỗ vô niệm, vô biệt. Tu Bồ Đề tướng Như cũng tất cả chỗ vô niệm, vô biệt. Như Lai tướng Như không hai, không khác, chẳng thể đắc. Tu Bồ Đề tướng Như cũng như vậy, thế nên Tu Bồ Đề là tùy Phật sanh.

Như Lai tướng Như chẳng xa lìa các pháp tướng Như, tướng Như này trọn không có gì chẳng Như. Vì Như chẳng khác nên Tu Bồ Đề là tùy Phật sanh, mà cũng không chỗ tùy”.

Tướng Như hay Chân Như là “thường trụ, vô tác (không do ai hay cái gì làm ra), vô niệm, (không có các khái niệm phân biệt hư vọng), vô biệt (không khác biệt ở bất cứ nơi đâu, bất cứ thời gian nào) và chưa bao giờ xa lìa các pháp, các hiện tượng”. Rõ ràng và trực tiếp hơn nữa là “trọn không có gì chẳng Như”, không có cái gì chẳng phải là Chân Như, mắt thấy gì thì cái đó là Chân Như, tai nghe tiếng gì thì tiếng đó là Chân Như… Chân Như này không do ý nghĩ tạo tác (vô tác), không có khái niệm phân biệt (vô niệm), không có sự khác biệt do ý thức tạo thành (vô biệt), và đó là cái thường trụ không biến đổi từ vô thủy đến vô chung. Thiền định thiền quán về Chân Như như vậy dần dần người ta sẽ cảm nhận, tiếp xúc, thấy được một cách sơ khởi Chân Như. Khi đã thật thấy một cách trực tiếp, người ta an trụ vào thực tại Chân Như ấy và dần dần tiến lên các địa.

Lại nữa Như Lai tướng Như chẳng quá khứ, chẳng vị lai, chẳng hiện tại, các pháp tướng Như cũng chẳng quá khứ, chẳng vị lai, chẳng hiện tại, thế nên Tu Bồ Đề là tùy Phật sanh.

Lại nữa Như Lai Như chẳng ở trong quá khứ Như, chẳng ở trong vị lai Như, chẳng ở trong hiện tại Như. Quá khứ Như, vị lai Như, hiện tại Như cũng chẳng ở trong Như Lai Như, là một Như, không hai, không khác.

Sắc Như, thọ tưởng hành thức Như, Như Lai Như là một Như, không hai không khác.

Ngã Như cho đến tri giả Như, kiến giả Như, Như Lai Như là một Như, không hai không khác. Bố thí ba la mật Như cho đến Bát nhã ba la mật Như, Nội Không Như cho đến Vô pháp hữu pháp Không Như, bốn niệm xứ Như cho đến Nhất thiết chủng trí Như, Như Lai Như là một Như, không hai không khác.

Đại bồ tát do được Như ấy nên gọi là Như Lai”.

Trong Như Lai hay Chân Như không có quá khứvị laihiện tại, chỉ là một Như, không hai, không khác. Thấy có hai, có khác là do vô minh phân biệt hư vọng tạo thành, và thời gian và không gian có hai có khác từ cái thấy hư vọng ấy sanh ra.

“Sắc Như, thọ tưởng hành thức Như, Như Lai Như là một Như, không hai không khác”: tất cả những cái tạo lập ra thế giớichúng sanh, trong thật tướng, chúng đều là Như, không hai không khác.

Cho đến Phật pháp, cái giải thoát cho chúng sanh, từ “Bố thí ba la mật, mười sáu cái Không, bốn niệm xứcho đến Nhất thiết chủng trí và Như Lai Như là một Như, không hai không khác”. Tất cả các pháp thực hành cho đến trí huệ viên mãn đều là một Như, cho nên ngay nơi một pháp môn người ta có thể thấy biết bản tánh, nền tảng của pháp môn ấy là Chân Như.

Các pháp môn là một Như, là sự biểu lộ của một Như, tất cả các pháp môn có cùng một bản tánh, một nền tảng Chân Như, nên nếu có sự đốn tiệm, nhanh chậm là do duyên nghiệp của từng người.

Cái thấy biết của giác ngộ là hoàn toàn thấy tất cả thế gian và xuất thế gian là Chân Như. Thấy biết, chứng đắc hoàn toàn Chân Như thì được gọi là Như Lai.

Khi ngài Tu Bồ Đề nói phẩm Tướng Như này, cõi Đại thiên thế giới này chấn động sáu cách. Chư Thiên, cõi Dục cõi Sắc dùng bột hương chiên đàn rải trên Đức Phật và Tu Bồ Đề và tán thán ‘Thật là chưa từng có. Ngài Tu Bồ Đề do Như Lai Như mà tùy Phật sanh’.

Ngài Tu Bồ Đề lại nói với chư Thiên: “Này các Thiên tử! Tu Bồ Đề chẳng từ nơi sắc mà tùy Phật sanh, cũng chẳng từ nơi sắc Như mà tùy Phật sanh. Chẳng lìa sắc mà tùy Phật sanh, cũng chẳng lìa sắc Như mà tùy Phật sanh. Cho đến Tu Bồ Đề chẳng từ nơi nhất thiết chủng trí mà tùy Phật sanh, cũng chẳng từ nơi nhất thiết chủng trí Như mà tùy Phật sanh, chẳng lìa nhất thiết chủng trí mà tùy Phật sanh, cũng chẳng lìa nhất thiết chủng trí Như mà tùy Phật sanh. Tu Bồ Đề chẳng từ nơi vô vi mà tùy Phật sanh, cũng chẳng từ nơi vô vi Như mà tùy Phật sanh, chẳng lìa vô vi mà tùy Phật sanh, cũng chẳng lìa vô vi Như mà tùy Phật sanh.

Vì sao thế? Vì tất cả pháp đều là vô sở hữubất khả đắc, không có người tùy sanh, cũng không có pháp để tùy sanh”.

Ngài Tu Bồ Đề chẳng từ nơi sắc, sắc Như cho đến chẳng từ vô vivô vi Như mà cũng chẳng lìa sắc, sắc Như, cho đến chẳng lìa vô vivô vi Như mà tùy Phật sanh. Rốt ráo ngài Tu Bồ Đề là vô sanh, không từ đâu sanh mà cũng chẳng lìa đâu sanh. Thế nên kinh nói, “không có người tùy sanh, cũng không có pháp để tùy sanh”.

Vì tất cả pháp đều là vô sở hữu (không chỗ có), bất khả đắc (không thể đắc) đều là Như. Một nghĩa của vô sở hữubất khả đắc là, theo KinLăng Già, vượt khỏi tâm, ý, ý thức. Tâm, ý, ý thức chỉ có thể nắm lấy tướng, chỉ có thể biết “từ nơi” hoặc “lìa khỏi” nên không thể thấu rõ cái vốn là vô sở hữubất khả đắc, tức là Chân Như.

Ngài Tu Bồ Đề nói đoạn cuối này để xóa sạch những khái niệm dù cao siêu nhất còn vướng vất trong tâm, ý, ý thức của người nghe để đưa đến giải thoát rốt ráo.

Lúc bấy giờ ngài Xá Lợi Phất bạch Phật. Bạch Thế Tôn! Như ấy chân thật chẳng hư. Pháp tướngpháp trụpháp vị rất sâu thẳm. Trong đây, sắc không thể đắc, sắc Như không thể đắc. Vì sao thế? Vì sắc còn không thể đắc, huống gì sắc Như mà lại có thể đắc.

Cho đến nhất thiết chủng trí không thể đắc, nhất thiết chủng trí Như không thể đắc. Vì sao thế? Vì nhất thiết chủng trí còn không thể đắc, huống gì nhất thiết chủng trí Như mà lại có thể đắc.

Phật bảo Xá Lợi Phất: Đúng như vậy. Xá Lợi Phất! Như ấy chân thật chẳng hư. Pháp tướngpháp trụpháp vị rất sâu thẳm. Trong đây, sắc cho đến nhất thiết chủng trí đều không thể đắc, sắc Như cho đến nhất thiết chủng trí Như đều không thể đắc. Vì sao thế? Vì sắc cho đến nhất thiết chủng trí còn không thể đắc, huống gì sắc Như cho đến nhất thiết chủng trí Như mà lại có thể đắc.

Lúc ngài Xá Lợi Phất nói tướng Như ấy, trong pháp hội có hai trăm Tỳ kheo vì chẳng thọ tất cả pháp nên được hết phiền nãochứng quả A La Hán. Năm trăm Tỳ kheo ni xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh. Năm ngàn Đại Bồ tát được vô sanh pháp nhẫn. Sáu ngàn Bồ tát vì chẳng lãnh thọ tất cả pháp nên sạch hết phiền não, tâm được giải thoát thành A La Hán”.

Phẩm này bắt đầu bằng những lời giảng của các Thiên tử, rồi lời dạy của Đức Phật và lời giảng “Tu Bồ Đề là tùy Phật sanh” của ngài Tu Bồ Đề. Sau cùng là lời của ngài Xá Lợi Phất và kết luận “Đúng như vậy” của Đức PhậtCuối cùng là những chứng đắc của các bậc thánh, ít nhất là “đắc pháp nhãn tịnh”, cao nhất là đắc quả A La Hán và Vô sanh pháp nhẫn của các Đại Bồ tát.

Ban đầu kinh nói, “sắc tướng Như cho đến nhất thiết chủng trí tướng Như là một Như, không hai không khác”, cuối cùng Kinh nói, “sắc Như cho đến nhất thiết chủng trí Như đều không thể đắc”.

Tại sao thế?

Ban đầu, với người bắt đầu thực hành thì Như là một khái niệm được hình dung bởi ngôn ngữ, chưa phải là một thực tại mà Kinh nói là “Như ấy chân thật chẳng hư, pháp tướngpháp trụpháp vị rất sâu thẳm”. Khái niệm ấy là những chỉ đường cho tâm, ý, ý thức đi dần đến và thể nhập Chân NhưThể nhập Chân Như là hòa hợp với Chân Như để được gọi là từ Chân Như sanh, tùy Phật sanh. Nhưng cuối cùng khi thực tại Chân Như đã được thấy rõ, được chứng ngộ thì những khái niệm ban đầu không còn cần thiết, có khi lại gây vướng mắc vi tế, nên Kinh kết luận, “sắc cho đến nhất thiết chủng trí còn không thể đắc, huống gì sắc Như cho đến nhất thiết chủng trí Như mà có thể đắc”.

Khi Kinh nói, “Như ấy chân thật không hư”, nghĩa là chỉ có Như, Chân Như, ngoài Như ấy không có thế gian sanh tử (sắc thọ tưởng hành thứccho đến các pháp xuất thế gian (bố thí ba la mật, mười sáu cái Không, bốn niệm xứcho đến nhất thiết chủng trí).

Tất cả chỉ là “Một Như, không hai, không khác”. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9144)
Một bản ngã khi muốn có được cái gì từ người khác thường thích đóng vai một nhân vật nào đó để làm cho nhu cầu của nó được đáp ứng... Eckhart Tolle
(Xem: 10669)
Sắc Tức Là Không, Không Tức Là Sắc - Nguyên tác: Cư sĩ Lý Nhất Quang, HT Thích Thắng Hoan dịch Việt ngữ
(Xem: 13397)
Biểu tượng quốc gia của các nước như Thái Lan, Indonesia, và thủ đô Ulan Bator (Mông Cổ) là hình tượng chim thần Garuda... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 11290)
La Sát là từ được phiên âm của Rakshasa/ Raksha (Sanskrit) là một sinh vật thần thoạihình dáng, tính cách của loài người hoặc quỷ thần bất thiện trong Hindu giáo và Phật giáo... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 9200)
Ở xứ ta, sinh vật thần thoại Khẩn Na La, trong kinh văn Phật giáo là một trong “bát bộ chúng”. Trong mỹ thuật cổ, sinh vật thần thoại Kinnara này được giới nghiên cứu gọi là “Tiên nữ đầu người mình chim”... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 14304)
Muốn sáng lại ánh sáng sẵn có, muốn sống lại lẽ sống như thực, Thái-Hư Đại-Sư thâu tóm tinh-hoa Phật-học thành cuốn sách nhỏ nầy... HT Thích Tâm Châu
(Xem: 7162)
Lâu nay mỗi chúng ta theo đạo Phật nhưng có nhiều điểm nghi ngờ, thấy đạo Phật hình như tiêu cực, đa số chùa chiền đều ở trên núi, cách xa thành thị... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 32321)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời... HT Thích Trí Chơn
(Xem: 12932)
Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 20719)
Phật giáo Huế là cái nôi của sự giữ gìn truyền thống thống nhất Phật giáo trong cả nước... Thích Hải Ấn
(Xem: 38921)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 7009)
Trích dịch từ nguyên tác “A Complete Guide to the Buddhist Path” by Khenchen Konchog Gyaltshen, edited by Khenmo Trinlay Chödrön, Thanh Liên dịch sang Việt ngữ
(Xem: 8822)
Một cơn đau đớn cực độ cũng có thể đưa đến một thể dạng giác ngộ nào đó giúp mình mở rộng tâm thức và con tim hướng vào kẻ khác.
(Xem: 6633)
Tờ nhật báo uy tín Le Monde của Pháp ngày 18/9/2013 đã nêu lên các mưu đồ và tham vọng quốc tế nhằm khai thác thánh địa Phật Giáo Lâm-tì-ni ... Hoang Phong
(Xem: 9629)
Bất nhị là không phải hai hay nhiều, cũng không phải một, mà là vô lượng hay không có số lượng. Số lượng là số đếm chỉ có trong thế giới tương đối, nhị nguyên... Truyền Bình
(Xem: 9338)
Thầy Tuệ Sỹ viết: “Bởi vì con cá dưới lòng sông không làm sao hiểu nổi chuyện kể đầy tính hoang đường của con rùa sau những chuyến du hành trên đất liền..." Đặng Công Hanh
(Xem: 7923)
Cứ một ngàn dải Ngân hà được tính là một tiểu thiên thế giới, một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới... Nhụy Nguyên
(Xem: 11577)
Các khoa học gia đã tìm thấy Thiền tập đều đặn có thể thay đổi cơ cấu hoạt độnghệ thống kinh mạch bên trong não bộ... Nguyên tác: Marc Kaufman; Trần Như Mai dịch
(Xem: 15977)
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 9480)
Chúng tôi hi vọng tập sách nhỏ này sẽ giúp ích phần nào cho sự tu học của đại chúng. Chúng tôi cũng mong mỏi được các bậc cao minh tôn túc chỉ bảo cho những điều sai sót mà chúng tôi biết chắc chắn là không thể nào tránh khỏi được.
(Xem: 12100)
Theo kinh điển, hai truyền thống Nam truyền và Bắc Truyền đều thừa nhận Đức Phật có đầy đủ 32 tướng quý... Thụy Nguyên
(Xem: 8650)
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đưa người ta đến một sự chuyển hóa toàn triệt và toàn diện cuộc đời sanh tử khổ đau manh mún bởi chia cắt, phân biệt, oán ghét và xung đột của mình bằng cái thấy biết chân thật của Phật... Đương Đạo
(Xem: 15366)
Giáo Khoa Phật Học (3 Tập) Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ, Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và biên soạn bổ túc
(Xem: 7878)
Trong khi xem kinh, nên có con mắt trạch pháp để nhận định những lời nào Phật quyền thuyết, những lời nào Phật thật thuyết, những lời nào là chính yếu, những lời nào là phụ yếu...
(Xem: 17592)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 8513)
Lương Vũ Đế, tự Tiêu Diễn, lên ngôi vào năm 37 tuổi, tại vị 49 năm, thọ 86 tuổi. Là vị vua sáng lập nên triều đại nhà Lương (502-556) trong giai đoạn Nam Bắc triều (420-589) của Trung Hoa.
(Xem: 8147)
“Nghiệp” là một danh từ triết học Ấn Độ có trước khi Đức Thích Ca xuất hiện. Ý nghĩa cơ bản của nó là “hành động” hoặc “thói quen”... Nguyễn Xuân Chiến
(Xem: 10379)
Nguyệt San Phật Giáo Việt Nam - Do Tổng hội Phật Giáo Việt Nam xuất bản năm 1956
(Xem: 15689)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 17348)
Danh từ tên gọi của Thủ Lư theo sách Trung Hoa Phật Quang Văn Hóa Thiên Phật Giáo Dụng Ngữ chép: "Thủ lư là lư hương cầm ở trên tay, còn gọi là Bỉnh hương lư, Thủ lư, Đề lư... Thích Tâm Mãn
(Xem: 7784)
Đại chúng bộbộ phái được xem là tiền thân của Phật giáo Đại thừa hoặc là bộ phái đóng góp nhiều trong lịch sử phát triển Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 12759)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 7860)
Phật dạy 20 điều khó không mang một sắc thái bi quan hay chán chường, mà nhằm chỉ dạy chúng ta phải ý thức rằng sự sống này phải nương nhờ lẫn nhau mới bảo tồn mạng sống trên nền tảng của nhân quả... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 8470)
Đạo Phậtcon đường dẫn đến an vui giải thoát. Đức Phật là bậc đạo sư, là người dẫn đường chứ không phải là vị thần linh có quyền ban phước giáng họa cho ai... Hoàng Nguyên
(Xem: 9621)
Tam Nguyệt San Hải Triều Âm - Cơ quan phát khởi nền quốc học, Phật học, và Văn hóa Việt Nam do Tổng Vụ Văn Hóa GHPGVNTN chủ trương từ 1973 đến 1975
(Xem: 10198)
Mục đích duy nhấtcuối cùng của con đường học Phật, tu Phật chính là thoát khỏi sinh tử. Trên đường đi tới điểm đích ấy, nền tảng chủ yếu hướng dẫn người tu Phật xuất gia lẫn tại gia không bị lạc lối được xem là sự nghiệp trí tuệ... Đoàn Ánh Loan
(Xem: 22982)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19147)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 9876)
Tuần San Đuốc Tuệ 1965 - Cơ Quan Phát huy tinh thần Phật Giáo, Khai triển văn hóa dân tộc - Miền Vĩnh Nghiêm trong GHPGVNTN 1965
(Xem: 8085)
Đặc San Hoằng Pháp Dharmaduta - Cơ Quan Truyền Bá Chánh Pháp Của GHPGVNTN 1973
(Xem: 23977)
Từ Điển Pháp Số Tam Tạng - Nguyên tác: Pháp sư Thích Nhất Như, Cư sĩ Lê Hồng Sơn dịch
(Xem: 8649)
Thế Thân, tác giả của bộ luận này vốn là một khai sĩ có quá nhiều truyền thuyết và ít nhiều sương khói trùm lên tiểu sử của ngài, đến nỗi cho đến nay, các học giả cũng chưa xác định được Thế Thân là ai.
(Xem: 8316)
Có thể nói rằng quan điểm bình đẳng về khả năng giải thoát tâm linh do Đức Phật đưa ra có một ý nghĩa cách mạng xã hội đáng kể...
(Xem: 7852)
Những hố thẳm triết lý mà Phạm Công Thiện nhắc tới là những hố thẳm tuyệt vọng của triết lý Tây Phương khi chưa tìm ra ngỏ thoát... Quán Như
(Xem: 17562)
Đức Phật nêu lên tánh không như là một thể dạng tối thượng của tâm thức không có gì vượt hơn được và xem đấy như là một phương tiện mang lại sự giải thoát... Hoang Phong dịch
(Xem: 9348)
Hãy hướng tâm vào bên trong và cố gắng tìm niềm vui ở bên trong. Chỉ khi tâm đã được kiềm chế và dẫn dắt đúng hướng thì nó mới có ích cho chủ của nó và xã hội.
(Xem: 8083)
Lôgic học Phật giáo được hình thành trước logic học Aristote gần hai trăm năm. Hệ thống lôgic của Phật giáo "thực tế" hơn và mang một chủ đích hay ứng dụng rõ rệt hơn... Hoang Phong
(Xem: 24110)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
(Xem: 24404)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 8255)
Triết học Trung quán kêu gọi sự chú ý của chúng ta, như một hệ thống đã tạo nên cuộc cách mạng trong đạo Phật và qua đó, toàn lĩnh vực triết học Ấn Độ.
(Xem: 8115)
Giới Thiệu Tóm Tắt Về Bộ Trung Quán Trong Tạng Luận Theo Đại Tạng Kinh Đại Chánh Tân Tu ... Đào Nguyên
(Xem: 7692)
Thưa Đại Vương, những người, có được tài sản lớn, mà không bị chúng làm say đắm... rất hiếm hoi trên đời này... Diệu Liên Lý Thu Linh
(Xem: 7720)
Bạo lực, khủng bố đã xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau trong những trường hợp khác nhau có liên quan đến cuộc đời của đức Phật... Thích Huệ Pháp dịch
(Xem: 8875)
Chánh Ngoa Tập (Uốn nắn những điều sai ngoa) trích từ bộ Vân Thê Pháp Vựng, Đời Minh, chùa Vân Thê ở Cổ Hàng, Sa-môn Châu Hoằng soạn, Như Hòa dịch.
(Xem: 25955)
Từ điển bách khoa Phật giáo Việt Nam, Tập 1 và 2; HT Thích Trí Thủ chủ trương, Lê Mạnh Thát chủ biên
(Xem: 13650)
Các tác phẩm Phật giáo viết bằng Buddhist Hybrid Sanskrit xuất hiện sau khi Pāṇini đã hoàn thành việc chuẩn hóa tiếng Phạn vào khoảng đầu thế kỷ thứ 4 trước dương lịch.
(Xem: 27757)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 19761)
Tu Tuệ là cách tu tập bằng thiền định phân giải, tức hướng vào mục tiêu phát huy sự hiểu biết, một sự hiểu biết siêu nhiên về bản chất đích thực của mọi vật thể và mọi biến cố...
(Xem: 7660)
Nghiệp không phát động từ bên ngoài mà sinh ra từ bên trong tâm thức của chính mình. Mỗi hành động (karma) đều tạo ra một hậu quả.
(Xem: 7512)
Làm sống lại những tiến bộ của người xưa, mỗi Phật tử sẽ trở thành gạch nối giữa quá khứhiện tại... Đỗ Thuần Khiêm
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant