Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chân Như Nhất Thừa

30 Tháng Mười Hai 202210:39(Xem: 1378)
Chân Như Nhất Thừa

Chân Như Nhất Thừa

Nguyễn Thế Đăng

hinh phat 13

 

1/ Không có gì thối chuyển trong Chân Như

Tiếp theo, trong phần cuối của phẩm Đại Như, kinh vẫn tiếp tục khai thị về Chân Như ở một cấp độ tinh tế hơn, đòi hỏi người nghe một mức độ Văn Tư Tu cao hơn, trực giác và trí huệ sâu sắc hơn, sáng tỏ hơn.

Các khai thị này có tính cách trực tiếp hơn, đốn giáo hơn, trực chỉ hơn, như trong các cấp bậc cao của Đại Ấn (Mahamudra), Đại Toàn Thiện (Maha AtiDzogchen), Thiền tông… Chẳng hạn khi đức Phật nói “Vô thượng Giác ngộ rất khó được”, thì ngài Tu Bồ Đề lại thưa với đức Phật rằng “Vô thượng Giác ngộ rất dễ được, vì…”

 

Lúc bấy giờ, chư Thiên cõi Sắc, cõi Dục bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vô thượng Giác ngộ thật khó được (đắc). Vì sao thế? Vì đại Bồ tát phải biết tất cả pháp rồi mới được Vô thượng Giác ngộ, mà pháp ấy cũng chẳng thể đắc.

Phật dạy: Đúng như vậy. Này các Thiên tử! Vô thượng Giác ngộ rất khó được. Phật cũng đã được nhất thiết chủng trí về tất cả pháp rồi mới được Vô thượng Giác ngộ, cũng không chỗ được, không có cái hay biết, không có cái được biết, không có người biết. Vì sao thế? Vì các pháp rốt ráo thanh tịnh vậy.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Như lời dạy của Phật, Vô thượng Giác ngộ rất khó được. Như con hiểu nghĩa của Phật dạy thì Vô thượng Giác ngộ này rất dễ được. Vì sao thế? Vì không có người được Vô thượng Giác ngộ, cũng không có pháp có thể được. Tất cả các pháp, tất cả pháp tướng Không, không có pháp có thể được, không có người có thể được, vì tất cả pháp Không vậy. Cũng không có pháp có thể tăng, cũng không có pháp có thể giảm. Từ bố thícho đến nhất thiết chủng trí, các pháp này đều không có cái để được, không có người được.

Do nhân duyên ấy nên theo ý con thì Vô thượng Giác ngộ dễ được. Vì sao thế? Vì sắc, sắc tướng Không cho đến nhất thiết chủng trínhất thiết chủng trí tướng Không”.

Từ sắc đến các pháp ba la mậtcho đến trí huệ cao nhất là nhất thiết chủng trí đều là tướng Không. Trong tướng Không đó, không tìm đâu ra người đắc và pháp có thể đắc, không có bất cứ một pháp gì nên không có sự tăng giảm. Đó là điều đức Phật nói, “Vì các pháp rốt ráo thanh tịnh vậy”.

Thế nên, Vô thượng Giác ngộ là dễ đắc, vì xưa nay chưa từng có người tu, chưa từng có các pháp để tu, chưa từng có người để đắc.

“Tất cả pháp Không” nghĩa là các pháp xưa nay rốt ráo thanh tịnh, trong đó không có những khái niệm người được, cái để được, mọi khởi niệm chủ thể và đối tượng đều không có. Đây là tánh Không rốt ráo thanh tịnh.

Ngài Xá Lợi Phất với nói với ngài Tu Bồ Đề: Thưa ngài, nếu tất cả pháp Không như hư khônghư không không khởi niệm rằng ta sẽ được Vô thượng Giác ngộ. Nếu đại Bồ tát tin tất cả pháp Không như hư không nên Vô thượng Giác ngộ dễ được thì tại sao hiện nay có hằng hà sa Bồ tát cầu Vô thượng Giác ngộ lại bị thối chuyển? Thế nên biết rằng Vô thượng Giác ngộ chẳng phải dễ được”.

Ngài Xá Lợi Phất là một vị đại A La Hán, hẳn ngài thấu rõ “tất cả pháp Không” nhưng ngài cố tình hỏi ngài Tu Bồ Đề, vị “hiểu Không đệ nhất”, cốt để cho những người các thế hệ sau bỏ những nghi ngờ, tin hiểu tánh Không mà chuyên tâm thực hành.

 

Ngài Tu Bồ Đề nói: Thưa ngài Xá Lợi Phất! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức đối với Vô thượng Giác ngộ là có thối chuyển chăng?

Ngài Xá Lợi Phất đáp: Không có thối chuyển”.

“Sắc, thọ, tưởng, hành, thức với Vô thượng Giác ngộ có thối chuyển chăng?” Câu hỏi như một công án mà thấu suốt được nó sẽ phá tan sanh tử của sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Bởi vì với chúng sanh chúng ta, sắc họ tưởng hành thức, những thứ tạo thành con người, là vô thường, sẽ đem lại khổ đau trong sanh tửVậy mà ý ngài Xá Lợi Phất nói là chúng không thối chuyển đối với Vô thượng Bồ đềCần phải thiền định thiền quán thật nhiều để những lời đối đáp của hai vị không phải là vô ích, không phải là văn chương hý luận.

Sắc, thọ… không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ là thế nào? Vô thượng Giác ngộ dĩ nhiên là không thối chuyển, nhưng sắc, thọ,… không thối chuyển là thế nào?

 

- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Lìa sắc, thọ, tưởng, hành, thức, có pháp gì thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ chăng? Cho đến lìa nhất thiết chủng trí có pháp gì thối chuyển chăng?

- Không có pháp gì thối chuyển”.

Sắc, thọ, tưởng, hành, thức không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ, mà lìa sắc, thọ, tưởng, hành thức cũng không có pháp nào thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ.

Tại sao tất cả pháp đều không thối chuyển mà lìa tất cả pháp cũng không có sự thối chuyển nào cả? Bởi vì:

Tất cả pháp không sanh

Tất cả pháp không diệt

Nếu rõ được như vậy

Chư Phật thường hiện tiền.

(Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Dạ ma cung kệ tán)

Bài kệ này cũng là những lời cuối cùng của Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông nói cho đệ tử Bảo Sát trước khi nhập diệt ở núi Yên Tử.

 

- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Ý ngài thế nào? Sắc tướng Như, thọ tướng Như, cho đến nhất thiết chủng trí tướng Như, đối với Vô thượng Giác ngộ có thối chuyển chăng?

- Không có thối chuyển.

- Lìa sắc tướng Như cho đến lìa nhất thiết chủng trí tướng Như, đối với Vô thượng Giác ngộ có pháp gì thối chuyển chăng?

- Không có pháp gì thối chuyển.

- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Như đối với Vô thượng Giác ngộ có thối chuyển chăng? Cho đến pháp tánhpháp trụpháp vịthật tếbất khả tư nghì tánh, đối với Vô thượng Giác ngộ có thối chuyển chăng?

- Không có thối chuyển.

- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Lìa Như, lìa pháp tánhpháp trụpháp vịthật tế, bất tư nghì tánh, đối với Vô thượng Giác ngộ có thối chuyển chăng?

- Không có thối chuyển.

- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Nếu các pháp rốt ráo chẳng thể đắc thì pháp gì thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ?

- Như lời ngài Tu Bồ Đề nói, trong pháp nhẫn ấy không có Bồ tát thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ”.

Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ, nghĩa là tất cả các pháp chưa hề lìa Vô thượng Giác ngộ, chưa hề lìa khỏi Chân Như. Bởi vì Chân Như chưa bao giờ dịch chuyển khỏi pháp trụpháp vịthật tế của nó để trở thành sanh tử. Thế nên trong Chân Như không có những vấn đề được hay mất, tiến hay thối, tăng hay giảm, dơ hay sạch.

Năm uẩn không thối chuyển trong Chân Như, nên “trong pháp nhẫn ấy không có Bồ tát thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ”.

“Nếu không có pháp gì thối chuyển”, đây là tánh Không tánh Như.

Ngài Xá Lợi Phất nói tiếp:

Nếu không thối chuyển, Phật nói ba hạng người cầu đạo là A La Hán đạoĐộc Giác Phật đạo và Phật đạo, ba hạng ấy là không sai khác. Như lời ngài Tu Bồ Đề nói thì chỉ có một hạng Bồ tát cầu Phật đạo thôi.

Bấy giờ ngài Phú Lâu Na bảo ngài Xá Lợi Phất: Ngài nên hỏi ngài Tu Bồ Đề là có một Bồ tát thừa chăng?

Ngài Tu Bồ Đề nói: Thưa ngài Xá Lợi Phất! Ở trong các pháp Như, ngài muốn có ba thừa chăng?

- Thưa ngài Tu Bồ Đề, không.

- Thưa ngài Xá Lợi Phất, trong ba thừa sai biệt ấy có Như để được chăng?

- Thưa không.

- Thưa ngài Xá Lợi Phất, Như ấy có một tướng, hai tướng, ba tướng chăng?

- Thưa không.

- Trong Như ấy ngài muốn có nhiều Bồ tát cho đến chỉ có một Bồ tát được chăng?

- Thưa không.

- Thưa ngài Xá Lợi Phất, trong bốn cách trên người ba thừa đều không thể có được, sao ngài lại nghĩ có người cầu Thanh văn thừa, người cầu Độc giác thừa, người cầu Phật thừa?

Thưa ngài Xá Lợi Phấtđại Bồ tát nghe ‘các pháp tướng Như’ này mà tâm chẳng kinh sợ, chẳng thối thất, chẳng hối hận, chẳng nghi ngờ, thì gọi là đại Bồ tát có thể thành tựu Giác ngộ.

Bấy giờ, Phật khen ngợi ngài Tu Bồ ĐềLành thay! Lành thay! Này Tu Bồ Đề! Lời của ông nói đó đều là Phật lực. Nếu đại Bồ tát nghe nói Như ấy không có các pháp riêng khác mà chẳng kinh sợ, chẳng thối thất, chẳng hối hận, chẳng nghi ngờ, phải biết Bồ tát ấy có thể thành tựu Vô thượng Giác ngộ”.

Trong Chân Như, chỉ có Chân Như, không thể có năm uẩn tức là không có chúng sanh và thế giới, không có sự riêng khác của các người ba thừaChân Như là Nhất thừa, từ xưa đến nay, từ cao nhất xuống đến thấp nhất. Chân Như Nhất thừa không có mảy may riêng khác nào trong những cái mà người bình thường gọi là thế giớichúng sanhkhông gianthời gianmê ngộ.

Vô thượng Giác ngộ là Chân Như Nhất thừa này.

Chỉ một cái nhìn sai khác, một ý nghĩ sai khác, một hành động sai khác là người ta đã tự loại mình ra khỏi Chân Như đang bao trùm khắp. Tin hiểu và thực hành như vậy, đó là hành thiền.

 

2/ Các pháp là sự biểu lộ của Chân Như

Kinh nói tiếp:

Ngài Xá Lợi Phất thưa: Bạch Thế Tôn! Thành tựu Giác ngộ nào?

Đức Phật dạy: Thành tựu Phật Vô thượng Giác ngộ.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu muốn thành tựu Vô thượng Giác ngộđại Bồ tát phải tu hành thế nào?

Đức Phật dạy: Phải sanh khởi tâm bình đẳng với tất cả chúng sanh, cũng dùng tâm bình đẳng nói với họ, không thiên lệch. Với tất cả chúng sanh phải có tâm khiêm hạ, cũng dùng tâm khiêm hạ nói với họ. Với tất cả chúng sanh phải có tâm vô ngại, cũng dùng tâm vô ngại nói với họ. Với tất cả chúng sanh phải có tâm không não hại, cũng dùng tâm không não hại nói với họ. Với tất cả chúng sanh phải có tâm yêu kính như cha mẹ, như anh chị em, như bà con, như bạn bè, cũng dùng tâm yêu kính nói với họ”.

Chân Như biểu lộ qua tất cả các pháp, các pháp môn, và chính nhờ sự biểu lộ thành cái có thể cảm nhận được, có thể suy nghĩ, thấy, nghe này mà người ta có thể tiếp xúc, thấy ra, chứng ngộ Chân NhưChân Như là nền tảng và cũng chính là những biểu lộ đó, nên qua chúng, người ta có thể kinh nghiệm được Chân NhưChân Như là Nền tảng, các pháp thực hành là Con đường, và Chân Như cũng chính là Quả.

 

Đoạn kinh trên nói về thực hành từ bi và với tâm từ bi người ta sống và làm việc, nhờ đó có thể thấy ra được Chân Như. Tại sao phải tu hành từ bi để thấy biết và thể nhập Chân Như? Bởi vì Chân Như là “một Như, không hai, không khác”, và từ bi rốt ráo là cái Một không hai, không khác.

 

Tiếp đó kinh nói đại Bồ tát phải “không sát sanh, không tà kiến, phải tự tu hành tâm từtâm bitâm hỷ, tâm xả, tự tu hành sơ thiền đến phi phi tưởng xứ định, đầy đủ sáu ba la mật, tự mình biết và chứng Tứ Đế, các quả của ba thừa cho đến nhất thiết chủng tríĐại Bồ tát phải tự mình nhập Bồ tát vị, tịnh Phật quốc độthành tựu chúng sanh…”, nghĩa là tu hành tất cả Phật pháp.

Vì như ở trước kinh nói, “Vì đại Bồ tát phải biết tất cả pháp rồi mới được Vô thượng Giác ngộ, pháp này cũng bất khả đắc”.

 

Đức Phật dạy: Muốn thành tựu Vô thượng Giác ngộđại Bồ tát phải tu hành như vậy. Cũng phải học lực phương tiện của Bát nhã ba la mật như vậy. Lúc học như vậy, tu hành như vậy, Bồ tát này sẽ được sắc vô ngại, sẽ được thọ, tưởng, hành, thức vô ngạicho đến sẽ được pháp trụ vô ngại.

Tại sao thế? Vì đại Bồ tát này từ trước cho đến nay chẳng thọ lấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến chẳng thọ lấy nhất thiết chủng trí.

Tại sao thế? Vì sắc mà chẳng có người thọ thì chẳng phải sắc. Cho đến nhất thiết chủng trí mà chẳng có người thọ thì chẳng phải nhất thiết chủng trí.

Lúc nói Bồ tát hạnh này, có hai trăm ngàn Bồ tát được vô sanh pháp nhẫn”.

Bồ tát thì tu tất cả các pháp. Nhưng tất cả các pháp đều hiện hữu trên và lưu xuất từ Nền tảng Chân Như - Tánh Không nên tu tất cả pháp mà chẳng thọ tất cả pháp. Không thọ chính là Trí huệ tánh Không. Thế nên Bồ tát không thọ mà sống và làm việc, do đó Bồ tát giải thoát ngay khi sống và làm công việc Bồ tátBồ tát hạnhBồ tát hạnh là tu tất cả các pháp trong chính Nền tảng Không - Như của tất cả các pháp. Khi ấy tất cả các pháp là vô ngại, nghĩa là tất cả các pháp chính là tự do.

Khi hoàn toàn thấy tất cả các pháp, tất cả sắc thọ tưởng hành thức là Không – Như, là vô ngại, tức là đắc vô sanh pháp nhẫn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4535)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7270)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2941)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12165)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3973)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3782)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4169)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3658)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5013)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6624)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3974)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4088)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5307)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3770)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4506)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3531)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3909)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4373)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5375)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3827)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3913)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3848)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4793)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4493)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4228)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3807)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4610)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4169)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6061)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4575)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4926)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4137)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4791)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5637)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3596)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4008)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4570)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5248)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3122)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4727)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4513)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4258)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4715)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4473)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4581)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7191)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5175)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4979)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4566)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5585)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5242)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4138)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 5982)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4698)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4850)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5457)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5597)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5786)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 4972)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4361)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant