Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Pháp Hoa Được Dịch Và Phổ BiếnTây Phương Như Thế Nào?

13 Tháng Giêng 202311:35(Xem: 1364)
Kinh Pháp Hoa Được Dịch Và Phổ Biến Ở Tây Phương Như Thế Nào?

Kinh Pháp Hoa Được Dịch Và Phổ BiếnTây Phương Như Thế Nào?


Huỳnh Kim Quang

 Kinh Pháp Hoa Yếu Lược



Kinh Pháp Hoa
, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng của Phật Giáo Đại Thừa đã được phổ biến rộng rãi tại các nước như Trung Hoa, Việt NamNhật BảnĐại Hàn, v.v…

Theo Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taishō Tripiṭaka),(1) Kinh Pháp Hoa có nhiều bản dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán, gồm:

- Bản dịch của ngài Trúc Pháp Hộ (Dharmarakṣa, 233-310), với tên Chánh Pháp Hoa Kinh, 10 quyển, dịch vào khoảng năm 286, đời Tây Tấn.

- Bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva, 344–413), với tên Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, 7 quyển, dịch vào khoảng năm 406, đời Diêu Tần;

- Bản dịch của ngài Xà-na-quật-đa (Jnanagupta) và ngài Đạt-ma-cấp-đa (Dharmagupta), với tên Thêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, 7 quyển, dịch vào đời nhà Tùy (581-618).

- Bản dịch của ngài Sa Môn Trí Nghiêm, với tên Phật Thuyết Pháp Hoa Tam Muội Kinh, 1 quyển, dịch vào đời Lưu Tống (420-479).

Ở Việt Nam có nhiều bản dịch tiếng Việt Kinh Pháp Hoa, gồm bản dịch của Hòa Thượng Thích Trí Tịnh (1917–2014), của Hòa Thượng Thích Trí Quang (1923-2019), của Hòa Thượng Thích Tuệ Hải, của Tỳ Kheo Thích Minh Định, của Cư Sĩ Đoàn Trung Còn (1908-1988), của Nguyên Thuận, v.v...

Theo bản Hán dịch của ngài Cưu-ma-la-thập, Kinh Pháp Hoa có 7 quyển gồm 28 phẩm. Trong nội dung Kinh, Đức Phật dạy về mục tiêu xuất thế của Ngài là để “khai thị ngộ nhập Phật tri kiến” cho chúng sinh. Cho nên, việc Ngài nói pháp Ba Thừa (Thanh VănDuyên Giác và Bồ Tát Thừa) chỉ là phương tiện để dẫn dắt chúng sinh theo căn cơ nhưng mục tiêu tối hậu là Nhất Thừa, tức là thành Phật như Ngài. Tam thừa như hóa thành và Nhất thừa như bảo thành, như trong Phẩm Hóa Thành Dụ thứ 7 có nói. Vì thế, Đức Phật trong Hội Pháp Hoa đã thọ ký cho các đệ tử Thanh Văn đều thành Phật trong tương lai. Diệu lý của Nhất Thừa là trên mặt lý tánh tuyệt đối thì tất cả chúng sinh vốn sẵn có Phật tánh và đều có khả năng thành Phật, nhưng vì vô minh che khuất mà chúng sinh chưa ngộ nhập. Điều này đã được minh giải trong Phẩm Hiện Bảo Tháp thứ 11, Phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ 16, trong đó nói rằng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn đã thành Phật từ vô lượng vô số kiếp quá khứ và đã độ cho vô lượng vô số chúng sinh. Theo đó, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Hóa Thân (gọi là Tích Môn, theo ngài Trí Khải của Thiên Thai Tông) như mặt trăng hiện ra dưới đáy nước phản chiếu từ Pháp Thân (gọi là Bản Môn, cũng theo ngài Trí Khải của Thiên Thai Tông) của Phật như mặt trăng thật trong sáng vằng vặc trên bầu trời bao la. Nhưng để thành Phật thì chúng sinh phải phát Bồ-đề tâm và nỗ lực tu tập theo Bồ-tát đạo, mà tiêu biểu là Kinh Pháp Hoa đã nêu ra các công hạnh của chư vị Bồ-tát như Quán Thế Âm Bồ-tát, Dược Vương và Dược Thượng Bồ-tát, hay Phổ Hiền Bồ-tát, v.v... Để minh giải cho điều này, Phẩm Tín Giải thứ 4 trong Kinh Pháp Hoa có câu chuyện về gã cùng tử bỏ nhà ra đi sống nghèo khổ ở tha phương. Rồi một hôm vị cha già là một đại trưởng giả thấy con mình đi ngang qua nhà bèn kêu vào để cho phục dịch từ việc nhỏ đến việc lớn và cuối cùng mới tuyên bố gã cùng tử ấy là con ruột và truyền trao tài sản cho con.

Tuy nhiên, bài viết này muốn giới thiệu đến độc giả sự xuất hiện của Kinh Pháp Hoa tại thế giới Tây phương như là bộ kinh Đại Thừa bằng chữ Phạn đầu tiên được dịch và phổ biến tại Tây Phương.

Tây phương biết đến Kinh Pháp Hoa lần đầu tiên qua tác phẩm của nhà truyền giáo Thiên Chúa Giáo La Mã Matteo Ricci (1552-1610). Ricci đã đến Macau năm 1582 là nơi ông bắt đầu công tác truyền giáo tại Trung Hoa. Trong tác phẩm “The True Doctrine of the Lord of Heaven” (天主實義 - Tianzhu shiyi – Thiên Chúa Thật Nghĩa), được xuất bản vào năm 1603, Ricci đề cập đến Kinh Pháp Hoa (Lotus Sūtra) và bài bác lời dạy trong Kinh này, theo Giáo Sư chuyên về Phật Giáo và Tây Tạng tại Phân Khoa Ngôn Ngữ và Văn Hóa Á Châu của Đại Học Michigan Donald Lopez.(2)

Nhưng phải đợi đến gần 250 năm sau, Tây phương mới thực sự đón nhận Kinh Pháp Hoa với tinh thần học thuật hàn lâm nghiêm túc và khách quan.

Theo Donald Lopez (2016), tác phẩm “Introduction à l'histoire du Buddhisme Indien” [Giới thiệu Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ] được xuất bản năm 1844 của học giả người Pháp Eugen Burnouf (1801-1852) đánh dấu sự khởi đầu của học thuật hàn lâm hiện đại về Phật Giáo vào Tây phương. Cũng theo Lopez, cuốn sách này “dường như lúc đầu có ý giúp các độc giả hiểu Kinh Pháp Hoa,” bản dịch mà Burnouf đã hoàn thành vào năm 1839. Nhưng lúc đó, Burnouf chưa công bố bản dịch Kinh Pháp Hoa vì ông muốn viết lời giới thiệu để in chung. Bản dịch tiếng Pháp Kinh Pháp Hoa từ tiếng Phạn tại Nepal của Burnouf được xuất bản chung trong tài liệu có tiêu đề “Le Lotus de la bonne loi traduit du Sanscrit accompagné d’un commentaire et de vingt et un mémoires relatifs au Buddhisme”(3) [Kinh Pháp Hoa được dịch từ tiếng Phạn cùng với một bản giải thích và 21 luận văn liên quan đến Phật Giáo], được xuất bản sau khi ông qua đời vào năm 1852.

Trong bài viết “The Life of the Lotus Sutra” được đăng trên trang mạng www.tricycle.org vào mùa đông năm 2016, Donald S. Lopez Jr. kể thêm về việc phiên dịch Kinh Pháp Hoa từ chữ Phạn sang tiếng Pháp và tiếng Anh.

Lopez (2016) kể rằng vào năm 1836, Brian Hodgson, lúc đó là Công sứ Anh tại triều đình Nepal ở Kathmandu, đã gửi 24 bản kinh tiếng Phạn sang Paris. Trong số đó là Kinh Pháp HoaHọc giả trẻ người Pháp Eugène Burnouf đã chọn Kinh Pháp Hoa và bắt đầu dịch, có thể bởi vì ông ấy thích các chuyện ngụ ngôn trong đó. Ông không có ý tưởng về sự quan trọng của nó trong lịch sử Phật Giáo. Ông đã hoàn tất việc phiên dịch toàn bộ cuốn Kinh, nhưng không xuất bản bởi vì ông nghĩ ông cần viết lời giới thiệu cho nó trước đã. Tác phẩm lớn này đã được in vào năm 1844 tựa đề là Giới Thiệu Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ [Introduction à l’ histoire du Buddhisme Indien], mà ngày nay được xem như là văn bản nền tảng cho việc nghiên cứu hàn lâm Phật Giáo tại Tây phương. Trên thực tế, khi Burnouf tiếp tục đọc Kinh Phật, ông ngày càng không thích phong cách kỳ lạ và hình ảnh dị thường của các kinh Đại Thừa, gồm Kinh Pháp Hoa. Ông thích điều mà ông gọi là “các kinh đơn giản,” mà ông cảm thấy phản ảnh chính xác hơn cuộc đời và lời dạy nguyên thủy của Đức Phật. Một cách nào đó, định kiến thích kinh tiếng Pali là xác thực hơn đã đến vào thời điểm này. Trong khi đó, Burnouf tiếp tục trì hoãn việc xuất bản dịch phẩm Kinh Pháp Hoa của ông và nó chỉ được xuất bản sau khi ông qua đời, dưới tên Le Lotus de la bonne loi [Diệu pháp liên hoa] vào năm 1852.

Giáo Sư Max Deeg, chuyên về lịch sử Phật Giáo và sự truyền bá của Phật Giáo từ Ấn Độ sang Trung Á và Đông Á, trong bài viết “From Scholarly Object to Religious Text— the Story of the Lotus Sutra in the West,”(4) được đăng trên trang nhà của Đại Học Cardiff University ở Anh Quốc, đã cho biết thêm một số thông tin giá trị về việc dịch Kinh Pháp Hoa của Giáo Sư Burnouf, qua phần trích phát biểu của Burnouf về ấn tượng khi có được bản Kinh Pháp Hoa bằng chữ Phạn được tìm thấy tại Nepal như sau:

“… Tôi quay qua cuốn sách mới, là sách về diệu PhápDiệu Pháp Liên Hoa, và tôi có thể khẳng định với bạn rằng rôi đã không hối hận tí nào với chọn lựa của mình. Kể từ ngày 25 tháng 4 mà tôi có, không do dự, đã cống hiến mỗi khoảnh khắc mà tôi có thể có dư từ nghề nghiệp làm giáo sư tiếng Phạn của tôi cho công tác này mà tôi đã đọc tất cả các phần đáng quan tâm. Tôi đã không hiểu mọi thứ, và bạn sẽ không ngạc nhiên điều đó; chủ đề này thì rất mới mẻ đối với tôi, cũng như với sự tôn trọng thể loại này nhưng cũng với sự tôn trọng ý nghĩa sâu xa… Dù vẫn còn nhiều điều có vẻ mơ hồ đối tới tôi nhưng tôi hiểu chủ đề của cuốn sách, cách trình bày của tác giả, và tôi ngay cả đã dịch hai chương trọn vẹn mà không bỏ sót điều gì. Các chương này chứa đựng hai câu chuyện ngụ ngôn không phải không thú vị mà còn là những thí dụ hứng thú đặc biệt về cách mà trong đó giáo lý của các Phật tử được thông truyền và về suy luận và phương pháp diễn đạt hoàn toàn giống Socrat… Cuối cùng, tôi thú nhận với bạn là tôi bị cuốn hút với việc đọc và tôi mong có thêm thời gian và sức khỏe để chính mình tập trung vào nó cả ngày lẫn đêm.”

Nhưng một phẩm từ bản dịch Kinh Pháp Hoa của Burnouf, cũng theo Lopez (2016), đã được đăng trên tạp chí danh giá của Phong Trào Siêu Việt Mỹ ở New England [New England Transcendentalism] The Dial vào năm 1844. Bài đăng trên The Dial có tựa đề “The Preaching of Buddha” [Giáo Thuyết của Đức Phật], đoạn Kinh được dịch từ tiếng Pháp sang tiếng Anh không phải bởi nhà văn người Mỹ Henry David Thoreau, như đã được tin như vậy từ lâu, mà bởi Elizabeth Palmer Peabody (1804-1894), người xứng đáng có vị trí đặc biệt trong lịch sử Phật Giáo tại Mỹ.

Theo Giáo Sư Đại Học Cal Poly University San Obispo là Steven Marx, trong bài viết “Thoreau’s Buddhism”(5), cho biết rằng một phẩm từ Kinh Pháp Hoa bằng tiếng Pháp được dịch lần đầu tiên sang tiếng Anh và đăng trên tạp chí The Dial là Phẩm Dược Thảo Dụ (The Parable of the Medicinal Herbs). Và chính Phẩm Dược Thảo Dụ của Kinh Pháp Hoa đã ảnh hưởng rất lớn đến triết gia và nhà văn người Mỹ Henry David Thoreau (1817-1862) góp phần định hướng tư tưởng và cuộc sống thân thiện với thiên nhiên của ông. Hai tác phẩm nổi tiếng của ông là Walden và Civil Disobedience. Đặc biệt chủ thuyết Civil Disobedience (Bất Tuân Dân Sự) của ông đã khơi mào cho các phong trào đấu tranh bất bạo động và bất tuân dân sự trên toàn thế giới, mà trong đó có nhà lãnh đạo phong trào giành độc lập của Ấn Độ Mohandas Karamchand Gandhi (1869-1948) và Mục Sư đấu tranh cho dân quyền và nhân quyền Martin Luther King Jr. (1929-1968) của Mỹ.

Elizabeth Palmer Peabody là một nhà giáo và là người đầu tiên ở Mỹ mở lớp học kindergarten tại Hoa Kỳ. Bà là nhà văn kiêm giám đốc kinh doanh của tạp chí The Dial. Bà cũng là thành viên của Phong Trào Siêu Việt Mỹ. Bà là phụ nữ Mỹ đầu tiên dịch Phẩm Dược Thảo Dụ của Kinh Pháp Hoa từ tiếng Pháp sang tiếng Anh được phổ biến đầu tiên tại Hoa Kỳ.

The Dial là tạp chí Mỹ được xuất bản không liên tục từ năm 1840 đến 1929, theo Mary Biggs, trong bài viết “Women's Literary Journals,” đăng trên The Library Quarterly: Chuyên mục Thông Tin, Cộng Đồng, Chính Sách, trang 53. Trong loạt đầu của tạp chí The Dial, từ năm 1840 tới 1844, là ấn phẩm chính của các Nhà Siêu Việt Mỹ. Từ thập niên 1880s tới năm 1919, nó đã được hồi sinh như là tạp chí nhận định chính trị và phê bình văn học. Từ năm 1920 tới 1929, nó là tạp chí có tầm ảnh hưởng đến văn học hiện đại bằng tiếng Anh.

Theo Philip F. Gura trong tác phẩm “American Transcendentalism: A History,” xuất bản bởi NXB Hill and Wang tại New York, năm 2007, nơi trang 128, cho biết rằng các Chủ bút của tạp chí The Dial lần lược là những nhà thơ, nhà văn Mỹ: Frederick Henry Hedge, Theodore Parker, và Ralph Waldo Emerson.

Phong Trào Siêu Việt Mỹ là một phong trào triết lý đã phát triển vào cuối thập niên 1820s và 1830s tại New England, Mỹ.

Theo Russell Goodman (2015) trong Bách Khoa Toàn Thư Triết Lý của Đại Học Stanford thì cho rằng “Phong Trào Siêu Việt là một phong trào văn học, chính trị, và triết lý của người Mỹ vào đầu thế kỷ thứ 19, tập trung chung quanh nhà thơ Ralph Waldo Emerson.”(6)

Trong khi đó, theo Tự Điển Merriam Webster thì “Phong Trào Siêu Việt là phong trào triết lý cho rằng tư tưởng và tâm linh là thật hơn kinh nghiệm đời thường của con người và vật chất.”

Thực tếPhong Trào Siêu Việt Mỹ là phong trào phản kháng của giới tri thức Mỹ đối với sự thống trị của nền văn minh cơ khí lên đời sống con người. Do đó, những nhà Phong Trào Siêu Việt mở đường cho việc quay trở về nền văn minh tôn giáo và tâm linh Đông Phương mà trong đó có triết lý Ấn ĐộPhật GiáoLão Giáo, và Khổng Giáo.

 Phong Trào Siêu Việt trở thành phong trào chặt chẽ và tổ chức thiêng liêng với việc sáng lập Câu Lạc Bộ Siêu Việt (Transcendental Club) tại Cambridge ở Massachusetts vào ngày 12 tháng 9 năm 1836, bởi các nhà trí thức nổi tiếng tại New England, gồm George Putnam (Mục Sư Giáo Phái Unitarian), Ralph Waldo Emerson, Frederic Henry Hedge. Các thành viên khác của Câu Lạc Bộ, gồm  Amos Bronson Alcott, Orestes Brownson, Theodore Parker, Henry David Thoreau, William Henry Channing, James Freeman Clarke, Christopher Pearse Cranch, Convers Francis, Sylvester Judd, và Jones Very. Các thành viên nữ, gồm Sophia Ripley, Margaret Fuller, Elizabeth Peabody, Ellen Sturgis Hooper, và Caroline Sturgis Tappan.(7)

Giáo Sư Max Deeg (2012), trong bài viết được nói đến ở trên, cũng cho biết thêm về ảnh hưởng của dịch phẩm Kinh Pháp Hoa từ tiếng Phạn sang tiếng Pháp do Giáo Sư Burnouf thực hiện. Ông nói rằng trong bối cảnh rộng lớn của việc nghiên cứu Phật Giáo vào hậu bán thế kỷ thứ 19, sau công tác đột phá của Burnouf, gồm việc giới thiệu Phật Giáo Ấn Độ của ông, đã có sự hứng khởi trong hướng nghiên cứu các văn bản Đại Thừa mà bằng chứng là sự phát triển mạnh trong việc nghiên cứu Ấn Độ học và Tôn Giáo với học giả kiêm Giáo Sư Đại Học Oxford Max Müller (1823–1900), vốn là học trò của Giáo Sư Burnouf tại Paris. Ở đây không chú trọng nhiều vào Kinh Pháp Hoa mà vào văn học Bát Nhã Ba La Mật (Prajñāpāramitā) và Tịnh Độ (Pure-Land) mà đã thu hút sự chú ý của một người Đức nổi tiếng về Ấn Độ Học tại Anh thông qua các học trò người Nhật của ông (Müller) như Kasahara Kenju (1852–1883), Nanjō Bun'yū (1849–1927), và sau đó còn có Takakusu Junjirō (1866–1945), một trong những nhà biên soạn phiên bản tiêu chuẩn của kinh điển Trung Hoa, là bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taishō Shinshū Daizōkyō).

Bản dịch tiếng Anh của Kinh Pháp Hoa từ các bản tiếng Phạn được copy lại được thực hiện bởi nhà ngôn ngữ và Đông phương học người Hòa Lan Hendrik Kern (1833-1917) vào năm 1884 và được ấn hành với tên là Saddharma Puṇḍarīka Sūtra, hay the Lotus of the True Law, như một phần trong dự án Sacred Books of the East của nhà ngôn ngữ và Đông phương học người Đức Max Müller (1823-1900), theo Tilmann Vetter (1999) trong tác phẩm “Hendrik Kern and the Lotus Sutra.”(8) Đây là bản dịch tiếng Anh trọn bộ Kinh Pháp Hoa đầu tiên trên thế giới.

Sau Thế Chiến Thứ Hai, sự chú ý của giới học giả đối với Kinh Pháp Hoa đã được cảm hứng bởi sự thích thú mới vào Phật Giáo Nhật Bản cũng như nghiên cứu khảo cổ học tại Động Đôn Hoàng ở tỉnh Cam Túc, Trung Hoa, theo Max Deeg (2012) trong bài viết “From scholarly object to religious text - the story of the Lotus-sutra in the West.”(9)

Vào năm 1976, Leon Hurvitz đã xuất bản tác phẩm “The Scripture of the Lotus Blossom of the Fine Dharma”(10) [Kinh Diệu Pháp Liên Hoa], là một bản dịch tiếng Anh mang tính học thuật Kinh Pháp Hoa dựa vào bản dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán của ngài Cưu-ma-la-thập (Kumarajiva). Trong khi bản dịch của Hurvitz là độc lập, nhiều bản dịch hiện đại khác được bảo trợ bởi các tổ chức Phật Giáo Nhật BảnThí dụ, bản dịch “Bộ Ba Kinh Pháp Hoa” (Threefold Lotus Sutra) vào năm 1975 của Bunno Kato và Yoshiro Tamura đã được Rissho-kosei-kai ủng hộ, bản dịch của Burton Watson được ủng hộ bởi Soka Gakkai, và bản dịch của Tsugunari Kubo và Akira Yuyama được hỗ trợ bởi Hội Bukkyō Dendō Kyōkai (Hội Quảng Bá Phật Giáo), cũng theo Max Deeg (2012).

Các bản dịch Kinh Pháp Hoa bằng tiếng Pháp, Tây Ban Nha và Đức đều dựa vào bản dịch chữ Hán của ngài Cưu-ma-la-thập, theo Stephen F. Teiser và Jacqueline I. Stone trong tác phẩm “Interpreting the Lotus Sutra.”(11)

Điều chúng ta thấy ở đây là, ở Tây phương, việc phiên dịch và phổ biến kinh điển Đại Thừacụ thể như Kinh Pháp Hoa, khởi đầu đều do giới học giả ngoài đời thực hiện trong tinh thần nghiên cứu học thuật một cách rất nghiêm túc. Không giống như ở Đông phương, việc phiên dịch kinh điển đa phần đều do giới Tăng sĩ đảm nhận.

*******

Một số bản dịch Kinh Pháp Hoa bằng chữ Đức, Pháp và Anh

-Borsig, Margareta von. Lotos-Sutra: Das Große Erleuchtungsbuch des Buddhismus. Freiburg: Herder, 2003.

-Burnouf, Eugene. Le lotus de la bonne loi. Paris: L’imprimerie Nationale, 1852.

-Hurvitz, Leon. Scripture of the Lotus Blossom of the Fine Dharma. New York: Columbia University Press, 1976.

-Katō, Bunnō. “The Sutra of the Lotus Flower of the Wonderful Law.” In The Threefold Lotus Sutra, translated by Bunnō Katō, Yoshirō Tamura, and Kōjirō ---Miyasaka, with revisions by W. E. Soothill, Wilhelm Schiffer, and Pier P. Del Campana, 18–213. New York and Tokyo: Weatherhill and Kosei, 1993.

-Kern, H. Saddharma-Puṇḍarīka or the Lotus of the Good Law. Sacred Books of the East XXII. Oxford: Clarendon Press, 1884.

https://lotus-happiness.com/lotus-sutra-translated-hendrik-kern1884/

-Kubo, Tsugunari and Akira Yuyama. The Lotus Sutra. Berkeley: Numata Center for Buddhist Translation and Research (revised second edition), 2007.

-Montgomery, Daniel B. The Lotus Sutra: The Sutra of the Lotus Flower of the Wonderful Dharma. Tokyo: Nichiren Shu Headquarters, 1991.

-Murano, Senchū. The Lotus Sutra: Sutra of the Lotus of the Wonderful Dharma. Hayward, CA: Nichiren Buddhist International Center, 1974.

- Roberts, Peter Alan. The White Lotus of the Good Dharma Sūtra was translated from Tibetan with reference to the Sanskrit.

https://read.84000.co/translation/toh113.html

-Reeves, Gene. The Lotus Sutra: A Contemporary Translation of a Buddhist Classic. Somerville, MA: Wisdom Publications, 2008.

-Soothill, W.E. The Lotus of the Wonderful Law, or The Lotus Gospel. Richmond: Curzon Press, 1987.

-Watson, Burton. The Lotus Sutra. New York: Columbia University Press, 1993.

 

*******

Chú Thích:

(1)  https://tripitaka.cbeta.org/ 

(2)  Lopez, Donald (2016), The Lotus Sutra: A Biography (Kindle ed.), Princeton University Press.

(3)  Burnouf, Eugène (tr.) (1852), Le Lotus de la Bonne Loi: Traduit du sanskrit, accompagné d'un commentaire et de vingt et un mémoires relatifs au Bouddhisme, Paris: Imprimerie Nationale.

(4)  https://www.totetu.org/assets/media/paper/j022_133.pdf

(5)  http://www.stevenmarx.net/2013/06/excerpt/

(6)  Goodman, Russell (2015), "Transcendentalism". Stanford Encyclopedia of Philosophy. "Transcendentalism is an American literary, political, and philosophical movement of the early nineteenth century, centered around Ralph Waldo Emerson."

(7)  theo https://en.wikipedia.org/wiki/Transcendentalism

(8)  Vetter, Tilmann (1999), "Hendrik Kern and the Lotus Sutra" (PDF), Annual Report of the International Research Institute for Advanced Buddhology at Soka University, 2: 129–142, the original PDF.

(9)  Deeg, Max (2012), "From scholarly object to religious text - the story of the Lotus-sutra in the West" (PDF), The Journal of Oriental Studies, 22: 133–153.

(10)  Hurvitz, Leon (2009), Scripture of the Lotus Blossom of the Fine Dharma: The Lotus Sutra (Rev. ed.), New York: Columbia University Press.

(11) Teiser, Stephen F. và Stone, Jacqueline I. (2009), "Interpreting the Lotus Sutra", in Teiser, Stephen F.; Stone, Jacqueline I. (eds.), Readings of the Lotus Sutra, New York: Columbia University Press, pp. 1–61.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8942)
Chánh Ngoa Tập (Uốn nắn những điều sai ngoa) trích từ bộ Vân Thê Pháp Vựng, Đời Minh, chùa Vân Thê ở Cổ Hàng, Sa-môn Châu Hoằng soạn, Như Hòa dịch.
(Xem: 26083)
Từ điển bách khoa Phật giáo Việt Nam, Tập 1 và 2; HT Thích Trí Thủ chủ trương, Lê Mạnh Thát chủ biên
(Xem: 13777)
Các tác phẩm Phật giáo viết bằng Buddhist Hybrid Sanskrit xuất hiện sau khi Pāṇini đã hoàn thành việc chuẩn hóa tiếng Phạn vào khoảng đầu thế kỷ thứ 4 trước dương lịch.
(Xem: 27925)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 19815)
Tu Tuệ là cách tu tập bằng thiền định phân giải, tức hướng vào mục tiêu phát huy sự hiểu biết, một sự hiểu biết siêu nhiên về bản chất đích thực của mọi vật thể và mọi biến cố...
(Xem: 7742)
Nghiệp không phát động từ bên ngoài mà sinh ra từ bên trong tâm thức của chính mình. Mỗi hành động (karma) đều tạo ra một hậu quả.
(Xem: 7602)
Làm sống lại những tiến bộ của người xưa, mỗi Phật tử sẽ trở thành gạch nối giữa quá khứhiện tại... Đỗ Thuần Khiêm
(Xem: 7457)
Khái quát trên đủ thấy Ðại Tạng kinh Hán văn là một bảo vật vô giá của Phật giáo và chung cho cả nền văn hóa thế giới... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 8012)
Cũng giống như trong Phật giáo, vạn pháp không hiện hữu, chỉ có mối liên hệ của chúng là hiện hữu... Trịnh Xuân Thuận
(Xem: 9715)
Trên thực tế, tất cả giáo huấn của Đức Phật đều nhằm giúp chúng ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Phương pháp tiếp cận thật sự rất hợp lýthực tiễn.
(Xem: 22680)
Phật Giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của nó luôn luôn gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc... Trần Tri Khách
(Xem: 16904)
Khi Đức Phật ra đời, Ngài đã chỉ bày rõ ràng, cặn kẽ cho người xuất gia cũng như người tại gia ở từng địa hạt một của tâm linh... HT Thích Như Điển
(Xem: 8523)
Đức Phật A Di Đà không tự làm cho tội của chúng sanh tự tiêu hủy, mà cảnh giới của Ngài là nơi những chúng sanh ấy có thể nương nào đó để tồn tạitiến tu thêm nữa... HT Thích Như Điển
(Xem: 10377)
Phương pháp chuyển hóa tâm thức của Đạo Phật không chỉ là một vấn đề niềm tin mà cũng là một niềm tin đạt đến được qua thiền phân tích... Đức Đạt Lai Lạt Ma
(Xem: 10541)
Sau khi dạy cho chúng ta hiểu khổ là gì và nguồn gốc của khổ, Đức Phật đã chỉ cho chúng ta con đường diệt khổ, tức là Bát Chánh Đạo...
(Xem: 11247)
Theo truyền thống tín ngưỡng của dân gian, có lẽ hình tượng 2 vị Thần TàiThổ Địa không xa lạ gì với người dân Việt Nam.
(Xem: 9876)
Phật giáo Mỹ sẽ phải phản ánh những nguyên tắc dân chủ, trong cái nghĩa “tự do và công lý cho mọi người”.
(Xem: 10543)
Muốn được giải thoát, trước hết chúng ta phải quan sát sự vật một cách thật cặn kẽ để có thể biết được và hiểu rõ bản chất thật sự của chúng.
(Xem: 12673)
Ý niệm về kinh liễu nghĩa và kinh không liễu nghĩa song hành với ý niệm về hai sự thật: Sự Thật Tương ĐốiSự Thật Tuyệt Đối.
(Xem: 8773)
Bản-thể-của-Phật còn gọi là Như Lai Tạng, Phật Tính, Pháp Giới, Chân Như... (tiếng Phạn là Tathagatagarbha), là một khái niệm quan trọng của Đại Thừa Phật Giáo.
(Xem: 19837)
Khi gọi là điều đạo đức, người ứng dụng hành trì sẽ cảm thấy có nhu cầu hướng tới, bởi điều đạo đức luôn mang đến hạnh phúc an lành cho con người.
(Xem: 20801)
Bát chánh đạocon đường tâm linh có khả năng giúp cho người phàm trở thành bậc Thánh. Trước hết là Chánh kiến, tức tầm nhìn chân chính...
(Xem: 21343)
Đọc Bát Đại Nhân Giác để trải nghiệm các giá trị cao siêu trong từng nếp sống bình dị, theo đó hành giả có thể tự mình mở mắt tuệ giác, trở thành bậc đại nhân...
(Xem: 13409)
Phật pháp ẩn tàng trong tất cả sự sự vật vật, và con đường giác ngộNhư Lai tuyên thuyết vốn dành cho tất cả chúng sinh có duyên được tiếp cận với đạo Phật.
(Xem: 10546)
Biết thân là huyễn mộng còn khó vứt bỏ huống hồ người chẳng giải ngộ. Nương vào lời Phật mà hành, tự ta mới có thể chuyển mệnh...
(Xem: 9517)
Sáu ba-la-mật là Bồ-tát hạnh. Bồ-tát hạnh gồm có hai sự tích tập: tích tập phước đức là làm lợi lạc cho người khác và tích tập trí huệ là xóa tan bóng tối vô minh...
(Xem: 26739)
Theo giáo lý đạo Phật, không ai có thể siêu độ cho ai, không ai có thể giải thoát cho ai, ngoại trừ chính cá nhân người đó.
(Xem: 10728)
Những Tỷ-kheo trong hội chúng bậc Thánh rõ biết “Đây là khổ”. Vì thấy rõ khổ nên nhàm chán, viễn ly, không tham danh vọng...
(Xem: 12099)
Trung quán tông luận phá mọi kiến giải về Thực tướng, không phải để phủ nhận Thực tướng mà để đưa đến Prajña (trí tuệ Bát-nhã)...
(Xem: 30858)
Đây là bộ sách trích lục những từ ngữ trong phần “Chú Thích” và “Phụ Chú” của bộ sách GIÁO KHOA PHẬT HỌC do chúng tôi soạn dịch...
(Xem: 14108)
Người Phật tử, dù là xuất gia hay tại gia đều không thể sống buông thả, phóng dật. Bởi lẽ, chúng ta nhận thức đời người là vốn quý, cuộc sống lại có hạn.
(Xem: 11127)
Môn Nhân minh học Phật giáo dạy chúng ta tư duy đúng đắn để có nhận thức đúng đắn, là chìa khóa của mọi thành công ở đời.
(Xem: 11081)
Ý thức sâu sắc của người Phật tử đối với tầm quan trọng thực tiễn của hiện tại khiến cho họ năng động hơn, tỉnh táo hơn, làm việc hết mình trong hiện tại.
(Xem: 11227)
Đạo Phật nhắc nhủ chúng ta, muốn giác ngộgiải thoát, đi theo con đường Phật chỉ bày thì phải đi, phải tu, chứ không thể nói suông được.
(Xem: 11616)
Tất cả Phật tử chúng ta hãy sống thiện như những cái cây có bộ rễ toàn hút những chất ngọt trong đất. Nhất định đời sống chúng ta sẽ an lạc hạnh phúc.
(Xem: 12708)
Để dạy Vô ngãVô phân biệt trong khi hành động theo cách phân biệt kỳ thị là không phù hợp lời nói với hành động.
(Xem: 24011)
Kiến thức là gì? Nó đã được thu thập hàng nghìn năm qua hằng bao kinh nghiệm, tích trữ trong trí não như kiến thức và ký ức. Và từ ký ức đó, tư tưởng (thought) phát sanh.
(Xem: 14903)
Hiện tại là giờ phút duy nhất mà mình có thể chọc thủng được bức màn thương đau, bức màn vô minh để có thể tiếp xúc được ngay với an lạc, với hạnh phúc, với tuệ giác.
(Xem: 11611)
Góp duyên để người xuất gia hoàn thành sứ mạng thiêng liêng đồng nghĩa với hạnh nguyện hộ pháp.
(Xem: 20227)
Nếu ai bị ái làm khổ thân mà diệt được thì gọi là cứu cánh, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh an ổn, cứu cánh vô dư (Niết-Bàn).
(Xem: 10596)
Trong các thứ hạnh phúc, được thực tập và sống theo lời Phật dạy là an vui, hạnh phúc lớn nhất. Nhờ đó, ta có được bình yên, hạnh phúc thật sự...
(Xem: 10358)
Muốn vô hiệu hóa cơn giận, trước khi nó bộc phát, Phật dạy ta hãy thường xuyên quán chiếu, xem xét sâu vào nội tâm để ta luôn tỉnh giác từng tâm niệm của mình.
(Xem: 12235)
Xin hãy đọc Kinh điển với tâm sáng suốt thanh tịnh, không vội tin chắc vào bất kỳ điều gì, mà phải nỗ lực thông qua sự hành trì thực nghiệm...
(Xem: 11480)
Sự thật về mọi sự là vô thường, khổ, vô tự tánh, vô ngã, giả hợp, như mộng, như huyễn được đạo Phật gọi là chân lý tuyệt đối, tối hậu (chân đế).
(Xem: 14269)
Cùng với chánh niệm thường trực, tàm và quý chính là hai nhân tố vô cùng quan trọng để mỗi người tự răn nhắc mình hướng thượng và thăng hoa.
(Xem: 11929)
Do định sinh trí huệ, dùng trí huệ này quán sát các pháp sẽ thấy biết như thật, quán sát vũ trụ vạn vật đúng như nó là, không sai sót mảy may.
(Xem: 24591)
Những gì Đức Phật dạy chúng ta, bằng hai con đường: tâm linh và khoa học con người sẽ đạt được cứu cánh giải thoát khỏi tất cả mọi ràng buộc...
(Xem: 12326)
Chúng ta phải cố gắng loại trừ tất cả những cảm xúc tiêu cực và phát triển những cảm xúc tích cực - vô hạn lượng - đặc biệt trong sự thực hành Phật Giáo...
(Xem: 22244)
Để thành tựu được lễ dâng y kathina, người thí chủ cần phải có sự hiểu về tấm y gọi là “Y Kathina” và nghi thức làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng.
(Xem: 12537)
Đối với nhà Phật cho là con người ai cũng có Phật tánh, mà có Phật tánh tức là có tánh tốt.
(Xem: 12709)
Có thể nói, sự hiểu biết đúng đắn thuyết nhân quả nghiệp báo của đạo Phật sẽ tạo cho mỗi người một ý thức trách nhiệm rất cao đối với cá nhân mình và xã hội.
(Xem: 12613)
Đã là người đệ tử thì chúng ta phải tin và hành theo lời dạy của Phật, đó mới đúng là người đệ tử chân chánh, biết tôn sư trọng đạo, hiếu nghĩa trọn vẹn.
(Xem: 16798)
Có một thời gian Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên phụ trách trông coi việc dựng thiền-thất tại vườn Lộc-Dã; một hôm trong lúc Tôn-giả đang đi kinh hành trên khoảng đất trống...
(Xem: 13722)
Bất cứ một hiện tượng nào được phát sinh ra cũng đều phải nhờ vào một sự kết hợp của nhiều nguyên nhân và nhiều điều kiện...
(Xem: 13021)
Cách tốt nhất để vượt thắng những điều không may, hay những thứ xui xẻo hãy tự mình làm nên những công đứcthiền quán về tánh không...
(Xem: 13471)
Nghiệp báo của sự tàn phá môi trường được phản ánh trong cuộc thảm sát đẫm máu bạo tàn dòng họ Thích Ca (Sakyā) bởi lòng hiềm thù mê muội của vua Tỳ Lưu Ly...
(Xem: 12548)
Với người xuất gia, phẩm vị được khẳng định ở giới hạnh chứ không phải ở tuổi tác. Có thể đầu xanh tuổi trẻ nhưng vẫn được tôn trọng cung kính...
(Xem: 14444)
Lòng tin là không nghi ngờ, không thắc mắc, không do dự, trung thành, tín cẩn. Khi nói chuyện với một người, có khi chúng ta tin liền điều người ấy nói...
(Xem: 38416)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 14620)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant