Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Từ Con Cò Trắng (udakabaka) Đến Sanh Diệt (udayabbaya) Trong Tỳ-nại-da Khảo Về Những Nhầm Lẫn Tự Dạng Trong Kinh Điển

28 Tháng Giêng 202309:36(Xem: 1584)
Từ Con Cò Trắng (udakabaka) Đến Sanh Diệt (udayabbaya) Trong Tỳ-nại-da Khảo Về Những Nhầm Lẫn Tự Dạng Trong Kinh Điển

Từ Con Cò Trắng (udakabaka) Đến Sanh Diệt (udayabbaya)
Trong Tỳ-nại-da Khảo Về Những Nhầm Lẫn Tự Dạng Trong Kinh Điển


Chúc Phú


hinh phat 16


Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xácrõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ. Trên phương diện giữ gìn và truyền đạt Thánh giáothành tựu khả năng lắng nghe này là một trong những điều kiện cần. Đặc biệt, trong những phương cách truyền đạt thông tin thời cổ đại ở Ấn Độ, mọi kiến thức nói chung và kinh điển Phật giáo nói riêng, sở dĩ được tiếp nối và truyền trao đều phải dựa vào việc lắng nghe chính xác và cẩn thận giữ gìn. Từ đây đã mở ra một giai thoại đáng suy gẫm cũng như những trường hợp tương tự, trong quá trình truyền dịch kinh điển Phật giáo nói chung.

1.  Từ con cò trắng (udakabaka) đến sanh diệt (udayabbaya) trong Tỳ-nại-da


Trước hết,
 trong tác phẩm Luật tạng Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ-nại-da tạp sự (根本說一切有部毘奈耶雜事) do ngài Nghĩa Tịnh 義淨 (635-713) phiên dịch, đã ghi lại một trường hợp liên quan đến việc nhầm lẫn trong việc lắng nghe và thọ trì kinh điển. Luật ghi:

Bấy giờ, ngài A-nan-đà cùng với các Tỳ-kheo an trú tại vườn Trúc Lâm, có vị Tỳ-kheo đã nói kệ rằng:

Nếu người sống trăm năm
Không thấy con cò trắng
Không bằng sống một ngày
Được thấy con cò trắng.

Khi ấy, ngài A-nan-đà nghe điều đó xong liền bảo vị Tỳ-kheo kia rằng:

- Đấng Đại sư không dạy như những điều mà thầy vừa tụng đọc. Đức PhậtThế Tôn đã nói như vầy:

Nếu người sống trăm năm
Không rõ biết sanh diệt
Không bằng sống một ngày
Được rõ biết sanh diệt[1].

Đoạn sau của bản luật này còn cho biết thêm, sau khi nghe ngài A-nan-đà giải thích, vị Tỳ-kheo này đã về hỏi lại thầy của mình. Thầy của vị ấy dùng kệ đáp rằng:

 A-nan-đà già suy
Sức nghĩ không còn gì
Lời nói thường quên sót
Chưa chắc để tin, y.
Con cứ nương lối cũ,
Như vậy mà tụng đọc[2].

Sự kiện này cũng còn được ghi nhận trong Phó pháp tạng nhân duyên truyện (付法藏因緣傳) với một vài thay đổi nhỏ[3]. Tác phẩm này được ngài Cát-ca-dạ (吉迦夜) và ngài Đàm Diệu (曇曜) dịch vào đời Nguyên Ngụy 元魏 (386-534). Căn cứ vào niên đại và hành trạng của hai vị dịch giả này, đã cho thấy rằng, sự kiện nhầm lẫn giữa con cò và lẽ sanh diệt từ tác phẩm Phó pháp tạng nhân duyên, được ghi nhận từ một nguồn kinh điển khác và có niên đại sớm hơn dịch phẩm nêu trên của ngài Nghĩa Tịnh.

Thứ hai, xét về nguồn cội, bài kệ trong Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ-nại-da tạp sự có nguồn gốc từ các truyền bản kinh Pháp cú, được ghi nhận ở hầu hết các truyền bản như:

-  Kinh Pháp cú Nam truyền (Dhamapada), phẩm Ngàn (Sahassavagga) 8.14:
Yo ca vassasataṃ jīve, apassaṃ udayabbayaṃ;
Ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo, passato udayabbayaṃ.
(Ai sống một trăm năm,

Không thấy pháp sinh diệt,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được pháp sinh diệt).
HT. Thích Minh Châu dịch.

-   Kinh Pháp cú Tây Tạng (Udānavarga), phẩm Quảng thuyết (Peyālavarga), 24.6:

Yac ca varṣaśataṁ jīved apaśyann udayavyayam
ekāhaṁ jīvitaṁ śreyaḥ paśyato hy udayavyayam।।
(Sống một trăm năm không thấy pháp sanh diệt,

không bằng sống chỉ một ngày thấy pháp sanh diệt).
Nguyên Giác dịch

-  Kinh Pháp cú Bắc truyền (法句經), phẩm Nói về ngàn (述千品), 16.14:

若人壽百歲, 不知成敗事,
不如生一日, 見微知所忌
(Nếu người sống trăm năm,
Không biết lẽ thành, bại,
Không bằng sống một ngày,
Thấy, hiểu rõ sự chết).

Kinh Xuất diệu (出曜經), phẩm Quảng diễn (廣演品), 25.5:

雖復壽百歲,不知生滅事,
不如一日中,曉了生滅事
(Nếu như sống trăm năm,
Không biết lẽ sanh diệt,
Không bằng sống một ngày,
Hiểu rõ lẽ sanh diệt).

Kinh Pháp tập yếu tụng (法集要頌經), phẩm Quảng thuyết (廣說品), 24.6:

若人壽百歲,不觀生滅法,
不如一日中,而解生滅法.
(Nếu người sống trăm năm,
Không quán pháp sanh diệt
Không bằng sống một ngày
Mà hiểu pháp sanh diệt).

Thứ ba, từ những trường hợp sai lầm được dẫn bởi Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ-nại-da tạp sự  根本說一切有部毘奈耶雜事) và Phó pháp tạng nhân duyên truyện (付法藏因緣傳) có thể phát xuất từ cả hai truyền bản kinh Pháp cú Pāli và cả Sanskrit .

Vì lẽ, với nguyên tác Pāli là Udayabbaya, nghĩa là sanh diệt (生滅), nhưng đã bị đọc nhầm thành Udakabaka, nghĩa là con cò trắng (水白鶴). Cú ngữ này, gồm hai thành tố Udaka, nghĩa là nước (水) và Baka, nghĩa là con diệc, con cò (蒼鷺). Về phương diện ngôn ngữ Sanskrit cũng mang nghĩa tương tự[4].

Ở đây, có điều lưu ý rằng, theo kinh Tương ưng bộ (S.22.37 - III.37) và kKinh Tạp A-hàm (Tạp. 雜 T.02. 0099.49. 012a27) thì cú ngữ Udayabbaya cũng được dùng như Udayavaya. Có thể do bởi điều này mà Hiệp hội Thánh điển Pāli (Pāli Text Society - PTS) đã sử dụng cú ngữ Udayavaya trong bản kinh Pháp cú của mình[5]. Từ những điều vừa nêu cho thấy, cả hai truyền bản kinh Pháp cú Pāli và kinh Pháp cú Sanskrit đều thống nhất sử dụng cú ngữ Udayavaya, nghĩa là sanh diệt.

Như vậy, có thể do sơ suất trong việc phát âm, thuộc về âm ngạc mềm (軟顎音, Velar consonant), hoặc có khả năng là do bị nghe nhầm, nên từ nguyên tác Udayavaya đọc thành  Udakabaka, đã tạo nên sự hiểu lầm đáng tiếc về phương diện ngữ nghĩa.

Ngoài trường hợp đặc thù này, trong quá trình xử lý văn bản ở tạng Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh (大正新脩大藏經), chúng tôi cũng phát hiện thêm vài trường hợp tương tự.

2.  Vài trường hợp nhầm lẫn tự dạng trong quá trình phiên dịch Phạn-Hán


Có nhiều trường hợp nhầm lẫn tự dạng trong quá trình phiên dịch từ Phạn sang Hán. Có thể do lỗi ở bản gốc Phạn ngữ, có thể do lỗi của vị Kinh sư (經T01n0026_p0809b23║ 師- Bhāṇaka)[6] trong khi tuyên đọc, có thể do lỗi ở việc chọn nghĩa hoặc khả năng lắng nghe của vị Bút thọ (筆受)[7]nên đã xuất hiện một vài trường hợp đặc dị trong dịch ngữ chữ Hán. Trong khuôn khổ bước đầuchúng tôi xin điểm qua một vài trường hợp tiêu biểu.

2.1.  Về chữ Đoạn (斷)

Trong nghĩa Hán-Việt, Đoạn (斷) mang nghĩa là cắt đứt (折斷), dứt bỏ hoàn toàn (斷絕), phân chia ra (分離)… Tuy nhiên, trong kinh Trung A-hàm và Tạp A-hàm, có nhiều trường hợp chữ Đoạn (斷) không mang nghĩa như vậy. Trường hợp này chính là cú ngữ Tứ chánh đoạn (四正斷). Trong kinh Trung A-hàm cú ngữ này xuất hiện trong năm kinh, gồm kinh 69, 86, 196, 210, 222. Trong kinh Tạp Tạp A-hàm cú ngữ này xuất hiện trong 20 kinh, gồm các kinh 638, 646, 655, 658, 663, 666, 667, 675, 679, 684, 691, 694, 698, 715, 832, 875, 876, 877, 878, 879.

Trong những trường hợp này, Tứ chánh đoạn (四正斷) mang nghĩa là Tứ chánh cần (四正勤). Vì lẽ, chữ Cần (勤) có nguyên tác Pāli là Padhāna, có nghĩa là gắng sứcnỗ lực, nhưng bị đọc nhầm thành Pahāna nghĩa là từ bỏ, đoạn dứt.

Cũng là chữ Cần (勤), trong ngôn ngữ Sanskrit thì được ghi là Prahāṇa (प्रहाण) nhưng mang cả hai nghĩa. Thứ nhất là sự gắng sức, sự nỗ lực (exertion) và thứ hai là sự từ bỏ (abandoning)[8].

Có lẽ do thấy được điều này nên ở hai bản kinh trên có vài chỗ cũng dùng cả hình thức là Tứ chánh cần (四正勤). Ở kinh Trung A-hàm, gồm hai kinh 35,  37. Ở kinh Tạp A-hàm, gồm ba kinh 57, 75, 305.

Như vậy, Tứ chánh cần (四正勤) được đọc thành Tứ chánh đoạn (四正斷) có thể do nghe nhầm hoặc do chọn nghĩa của chữ.

2.2.  Về chữ Bảo (寶)

Trong nghĩa Hán-Việt, Bảo (寶) chỉ cho một loại ngọc (玉也), quý giá (珍貴), tôn xưng người khác (敬辭)… Ở nghĩa quý báukinh điển Phật giáo có từ Thất bảo (七寶) tức là bảy loại trân bảo[9]. Tuy nhiên, có một trường hợp ở trong kinh Trung A-hàm, kinh Ca-hi-na (迦絺那經), cụm từ Thất bảo (七寶) không mang nghĩa như vừa nêu trên. Nguyên tác đoạn kinh đó là:

Nhược vương đại tượng, hoặc hữu thất bảo, hoặc phục giảm bát, dĩ đa-la diệp phú chi, như ngã phú tàng ư thử lục thông (若王大象, 或有七寶, 或復減八, 以多羅葉覆之, 如我覆藏於此六通).

Dịch nghĩa:

 Như con voi lớn của nhà vua, hoặc có thất bảo, hoặc lại giảm tám, dùng lá đa-la mà che cho voi, như tôi che dấu sáu thần thông này[10].

Trong trường hợp này, nếu chỉ dựa vào chữ thì khó có thể thông đạt nghĩa lý của kinh. Do vậy, chúng tôi đã khảo sát các bản kinh tương đương từ các nguồn thì phát hiện có hai bản kinh liên quan đến trường hợp này.

Trước hết, đó là kinh Tạp A-hàm, số 1144[11], với nguyên tác: Thí như Chuyển luân Thánh vương bảo tượngcao thất bát trửu, nhất đa-la diệp năng ánh chướng giả. Như thịngã sở thành tựu lục thần thông trí, tắc khả ánh chướng (譬如轉輪聖王寶象, 高七八肘, 一多羅葉能映障者. 如是我所成就六神通智,則可映障).

Dịch nghĩa:

 như voi báu của Chuyển luân Thánh vương cao bảy, tám khuỷu tay mà một chiếc lá đa-la có thể che phủ. Sáu trí thần thông mà ta thành tựu cũng có khả năng che phủ như vậy.

Thứ hai, kinh Tương ưng bộ (S.16.11 - II. 217), với nguyên tác: Sattaratanaṁ vā, āvuso, nāgaṁ aḍḍhaṭṭhamaratanaṁ vā tālapattikāya chādetabbaṁ maññeyya, yo me cha abhiññā chādetabbaṁ maññeyyā”ti.

HT.Thích Minh Châu dịch:

Này Hiền giả, ai nghĩ rằng có thể che đậy sáu thắng trí của ta được, thời không khác gì họ nghĩ rằng có thể lấy một lá cây ta-la mà che đậy một con voi lớn đến bảy hay tám khuỷu tay rưởi bề cao.

Ở đây, cả hai bản kinh Tạp A-hàm và Tương ưng bộ đều dùng cú ngữ cao từ bảy đến tám khuỷu tay. Trong khi đó, ở kinh Trung A-hàm, số 80 lại ghi: hoặc có thất bảo, hoặc lại giảm tám. Vấn đề chưa rõ ở đây chính là cụm từ: hoặc có thất bảo (或有七寶).

Thất bảo (七寶), ngoài định nghĩa thông dụng lược nêu ở trên, trong nguyên tác Pāli, chữ Bảo (寶) được viết là ratana, vừa có nghĩa là quý báu vừa chỉ cho đơn vị đo độ dài thời xưa, tiếng Anh gọi là cubit, tức là chiều dài của cẳng tay, còn gọi là từ ngón tay đến khuỷu tay (肘), tương đương với từ hattha trong Pāli, tức khoảng 44cm. Từ điển Pāli-Hán của ngài Mahinda xác định rằng, ratana bằng một khuỷu tay (肘)[12]. Từ nghĩa này, Thất bảo (七寶) là chiều dài của bảy khuỷu tay (ratana). Theo Từ điển Pāli-Anh của PTS, bảy ratana sẽ bằng một yaṭṭhi[13]tức khoảng 3 mét.

Như vậy, căn cứ vào sự phân tích ngữ nguyên vừa nêu, đặc biệt là dựa trên sự tham chiếu hai bản kinh Tạp A-hàm và Tương ưng bộ vừa dẫn, câu kinh Trung A-hàm, số 80 với nguyên tác: (若王大象, 或有七寶, 或復減八, 以多羅葉覆之, 如我覆藏於此六通), được dịch nghĩa:

Như con voi lớn của nhà vua, hoặc có thất bảo, hoặc lại giảm tám, dùng lá đa-la mà che cho voi, như tôi che dấu sáu thần thông này.

Có thể dịch là:

Như con voi lớn của nhà vua, hoặc cao từ bảy cho đến gần tám khuỷu tay, dùng lá đa-la mà che cho voi, như tôi che dấu sáu thần thông này.

2.3 Về chữ Hành dục (行欲)

Trong nghĩa Hán-Việt, từ Hành dục (行欲) mang nghĩa là thọ hưởng dục lạcthực hành dâm dụcBài kinh 126 thuộc Trung A-hàm, kinh Hành dục (行欲經) đã đề cập một phần về nghĩa này. Mặt khác, bản kinh tương đương thuộc kinh Tăng chi bộ (A.10.91-V.177), được HT.Thích Minh Châu dịch là kinh Người hưởng dục (Kāmabhogī Sutta) đã góp phần lý giải thêm về nghĩa Hành dục (行欲), với nguyên tác Pāli là Kāmabhogī.

Tuy nhiên, có một trường hợp đặc biệt, cú ngữ hành dục (行欲) dường như không được hiểu theo nghĩa như trên, xuất hiện trong kinh Trung A-hàm, đó là Ni-kiền kinh 尼乾經 (T.01. 0026.19. 0442b29). Nguyên tác đoạn kinh đó là:

Bỉ hoặc dục đoạn khổ nhânhành dục, hoặc dục đoạn khổ nhânhành xả dục; bỉ nhược dục đoạn khổ nhân, hành dục giả, tức tu kỳ hành dục, dĩ đoạn giả, khổ tiện đắc tận. Bỉ nhược dục đoạn khổ nhânhành xả dục giả, tức tu kỳ hành xả dục, dĩ đoạn giả, khổ tiện tức tận.

 彼或欲斷苦因,行欲,或欲斷苦因,行捨欲,彼若欲斷苦因,行欲者,即修其行欲,已斷者,苦便得盡。彼若欲斷苦因,行捨欲者,即修其行捨欲,已斷者,苦便得盡.

Bản kinh Trung A-hàm này có kinh tương đương ở kinh Trung bộ, đó là kinh M. 101, Devadaha Sutta (Kinh Devadaha), có đoạn gần tương đương sau:

So evaṁ pajānāti: ‘imassa kho me dukkhanidānassa saṅkhāraṁ padahato saṅkhārappadhānā virāgo hoti, imassa pana me dukkhanidānassa ajjhupekkhato upekkhaṁ bhāvayato virāgo hotī’ti.

HT.Thích Minh Châu dịch:

Vị ấy biết như sau: “Trong khi ta tinh cần chống lại nguyên nhân đau khổ này, do chống lại nguyên nhân đau khổ, ta không có tham dục. Nhưng trong khi ta xả đối với nguyên nhân đau khổ này, trong khi tu tập xả, ta không có tham dục”.

Tỳ-kheo Bodhi dịch:

He knows thus: “When I strive with determination, this particular source of suffering fades away in me because of that determined striving; and when I look on with equanimity, this particular source of suffering fades away in me while I develop equanimity.” (Vị ấy biết như sau: “Khi ta nỗ lực với sự quyết tâm, nguồn đau khổ đặc biệt này trong ta sẽ tiêu tan do quyết tâm phấn đấu đó; và khi ta quán sát với tâm xả, nguồn đau khổ đặc biệt này sẽ biến mất trong ta khi ta phát triển tâm xả.”)

Tỳ-kheo Sujato dịch:

They understand: “When I actively strive I become dispassionate towards this source of suffering. But when I develop equanimity I become dispassionate towards this other source of suffering.”  (Họ hiểu rằng: “Khi ta tích cực phấn đấu, ta trở nên vô cảm đối với nguồn đau khổ này. Nhưng khi ta phát triển tâm xả, ta trở nên thanh thản đối với nguồn đau khổ khác.”)

Trong ba bản dịch, cụm từ: saṅkhāraṁ padahato được HT.Thích Minh Châu dịch: tinh cần chống lại[14]; Tỳ-kheo Bodhi dịch: strive with determination (nỗ lực với sự quyết tâm); Tỳ-kheo Sujato dịch: actively strive (tích cực phấn đấu).

Đối chiếu hai bản kinh Trung A-hàm, số 19 và Trung bộ, số 101, thì cú ngữ hành dục (行欲) theo Hán tạng được trực dịch từ saṅkhāraṁ padahato theo Pāli. Ở đây, saṅkhāra thường được Hán dịch là Hành (行). Tuy nhiên, về phương diện ngữ nghĩa Pāli, saṅkhāra là một thuật ngữ đặc biệttùy theo ngữ cảnh mà mang nghĩa khác nhau. Theo ngài Nyanatiloka, vị tu sĩ và là học giả người Đức, saṅkhāra có nghĩa là quyết tâm nỗ lực (volitional effort)[15]. Cơ sở của quan điểm này, ngài Nyanatiloka dựa vào trường hợp Hữu hành Bát-niết-bàn (有行般涅槃, Sasankhāra)[16] và Vô hành Bát-niết-bàn (無行般涅槃, Asankhāra)[17] của quả vị Bất hoàn (不還,Anāgāmi). Về cú ngữ  padahato trong trường họp này được Hán dịch là Dục (欲), có nghĩa là cần phảicần thiết (須要). Thực ra, padahato ở dạng động từ là padahati, nghĩa là nỗ lựctinh cần. Việc dùng chữ Dục (欲) của kinh Trung A-hàm và padahato ở kinh Trung bộ đều có hàm ý riêng và hiện chưa đủ cơ sở tư liệu để khẳng định bản kinh nào nguyên thủy hơn bản kinh nào.

Như vậy, từ những đối khảo và phân tích ở trên, cú ngữ hành dục (行欲) trong Ni-kiền kinh (尼乾經) có nghĩa là: cần phải nỗ lực.

Và từ đây, đoạn kinh Ni-kiền, số 19 thuộc Trung A-hàm với nguyên tác:

彼或欲斷苦因,行欲,或欲斷苦因,行捨欲,彼若欲斷苦因,行欲者,即修其行欲,已斷者,苦便得盡。彼若欲斷苦因,行捨欲者,即修其行捨欲,已斷者,苦便得盡.

Có thể được dịch là:

 Vị ấy nếu muốn đoạn trừ nguyên nhân của khổ, cần phải nỗ lực, hoặc muốn đoạn trừ nguyên nhân của khổ, cần phải nỗ lực buông xả. Vị ấy nếu muốn đoạn trừ nguyên nhân của khổ thì cần phải nỗ lực, tức là cần phải tu tập về sự nỗ lực đó, việc tu tập hoàn tất thì khổ liền được dứt sạch. Vị ấy nếu muốn đoạn trừ nguyên nhân của khổ thì cần phải nỗ lực buông xả, tức là cần phải tu tập về sự nỗ lực buông xả đó, việc tu tập hoàn tất thì khổ liền được dứt sạch.

3. Nhận định


Trong quá trình truyền dịch kinh điển, tùy theo bản kinh được ghi nhớ hoặc thủ đắc, tùy theo quan điểm riêng của từng vị phiên dịch mà ngôn ngữ truyền đạt, cấu trúc văn phápthuật ngữ Phật học… có nhiều điểm đặc thù. Giai thoại nhầm lẫn về âm tiết được nêu dẫn trong Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ-nại-da tạp sự có thể là một sự kiện có thật. Qua đó đã liên hệ, gợi mở đến nhiều vấn đề cần phải cân nhắc, cần được giải mã trong kho tàng kinh điển Phật giáo mà những trường hợp nêu trên chỉ mang tính khởi đầu.

Theo kinh Đại Bát-niết-bàn, số mười sáu, thuộc Trường bộ và kinh Du hành, số hai, thuộc Trường A-hàm, trong chuyến hành trình cuối cùng trước khi viên tịch, tại cổ thành Bhoga (Bhoganagara), Đức Phật đã dự cảm nguy cơ sai lệch của giáo pháp trong quá trình lưu giữ, truyền thừa nên Ngài đã dạy về Bốn pháp y cứ to lớn (Catumahāpadesa, 四大教法). Theo đó, để xác định tính chân thực của một bản kinh thì cần phải so sánh với Kinh, đối chiếu với Luật. Đây là hai cơ sở quan trọng, mang tính xuyên suốt, và là cơ sở lý luận của chuyên khảo này.

Nguyện giải nghĩa chân thật của Như Lai là lời ước nguyện cao cả và thiêng liêng; vì lẽ, không những giúp cho hàng đệ tử Phật thấy rõ con đường thực hành mà còn mang ý nghĩa hưng vong đối với kho tàng Pháp bảo cao quý.

 


[1] Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ-nại-da tạp sự  根本說一切有部毘奈耶雜事 (T. 24. 1451.40. 0409c11). Nguyên tác: 時阿難陀與諸苾芻在竹林園,有一苾芻而說頌曰: 若人壽百歲, 見水白鶴,不如一日生, 得見水白鶴. 時阿難陀聞已告彼苾芻曰: 汝所誦者, 大師不作是語. 然佛世尊作如是說: 若人壽百歲, 不了於生滅, 不如一日生, 得了於生滅.

[2] Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ-nại-da tạp sự  根本說一切有部毘奈耶雜事 (T. 24. 1451.40. 0410a12). Nguyên tác: 阿難陀老闇,無力能憶持,出言多忘失,未必可依信.汝但依舊如是誦持.

[3] Phó pháp tạng nhân duyên truyện 付法藏因緣傳 (T. 50.2058.2. 0302b25). Nguyên tác: 若人生百歲,不見水老鶴,不如生一日,而得覩見之. Và câu kệ của Tôn giả A-nan: 若人生百歲,不解生滅法,不如生一日,而得解了之.

[4] Theo Monier-Williams. Sanskrit-English Dictionary, Udaka (उदक) có nghĩa là nước, nhúng vào nước; Baka (बक) có nghĩa là một loại diệc hay chim sếu.

[5]113. Yo ca vassasataṃ jīve apassaṃ udayavyayaṃ.
Ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo passato udayavyayaṃ. Xem tại: https://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sltp/Dhp_utf8.html#v.33

[6] Xem, T.023. 1435. 0125a14; T.028. 1548. 0525b08;  T.054. 2125. 0217b23; T.054. 2125. 0227a11.

[7] Bút thọ (筆受): Ghi chép lại lời dạy, lời nói mà ở đây là ghi chép bản dịch kinh điển. Xem, Đại trí độ luận 大智度論 (T. 025. 1509.11. 0136b11). Theo Đại Tống Tăng sử lược 大宋僧史略 (T. 054. 2126.1. 0236b09) thì chức năng của vị bút thọ là tùy theo những gì được nghe mà ghi chép lại (隨聲筆受).

[8] Theo Monier-Williams, Sanskrit-English Dictionary, mục từ Prahāṇa (प्रहाण).

[9] Thất bảo (七寶): Bảy loại quý báu. Các kinh liệt kê không giống nhau. Theo Trường A-hàm, ở Du hành kinh 遊行經 (T.01. 0001.2. 0021c12) ghi là: Bảy báu là những gì? 1. Bánh xe báu bằng vàng; 2. Voi trắng báu; 3. Ngựa tía báu; 4. Thần châu báu; 5. Ngọc nữ báu; 6. Cư sĩ báu; 7. Chủ binh báu (何謂七寶? 一、金輪寶,二、白象寶,三、紺馬寶,四、神珠寶,五、玉女寶,六、居士寶,七、主兵寶). Diệu pháp liên hoa kinh 妙法蓮華經 (T.009. 0262.3. 0021c19) cho rằng: Vàng, bạc, lưu ly, xa-cừ, mã não, chân châu, mai khôi (金、銀、琉璃、車𤦲、馬瑙、真珠、玫瑰)…

[10] Đoạn kinh này, Hòa thượng Tuệ Sỹ dịch: Như con voi lớn của vua, hoặc có bảy báu, hoặc lại giảm tám, lấy lá đa-la mà che đi, như tôi được che phủ với sáu thông này.

[11] Tạp. 雜 (T.02. 0099.1144. 302c13).

[12] Ba-lợi ngữ hối giải và Ba-lợi tâm âm dịch, Mã-hân-đức Tôn giả (巴利語匯解&巴利新音譯 瑪欣德尊者). Mục từ Ratana.

[13] The Pāli Text Society's Pāli-English dictionary. Mục từ Ratana: 7 ratanas =1 yaṭṭhi.

[14] Cụm từ padahato theo Từ điển Pāli của PTS cũng có một nghĩa là chiến đấu chống lại (fight against).

[15] Nyanatiloka. Buddhist Dictionary, 3rd ed. Singapore: Singapore Buddhist Meditation Centre, 2002, p. 163.

[16] Hữu hành Bát-niết-bàn (有行般涅槃, Sasankhāra). Xem thêm kinh Tăng chi bộ (A.7.55-IV.71): So pañcannaṁ orambhāgiyānaṁ saṁyojanānaṁ parikkhayā sasaṅkhāraparinibbāyī hoti. Tỳ-kheo Sujato dịch: With the ending of the five lower fetters they’re extinguished with extra effort (Với sự đoạn tận năm hạ phần kiết sử, họ được thể nhập Niết-bàn với môt vài nỗ lực).

[17] Vô hành Bát-niết-bàn (無行般涅槃, Asankhāra). Kinh Tăng chi bộ (A.7.55-IV.71): So pañcannaṁ orambhāgiyānaṁ saṁyojanānaṁ parikkhayā asaṅkhāraparinibbāyī hoti. Tỳ-kheo Sujato dịch: With the ending of the five lower fetters they’re extinguished without extra effort (Với sự đoạn tận năm hạ phần kiết sử, họ được thể nhập Niết-bàn không cần thêm nỗ lực).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4535)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7270)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2941)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12167)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3974)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3784)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4170)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3659)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5013)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6625)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3974)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4088)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5307)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3771)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4506)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3531)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3911)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4376)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5375)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3827)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3913)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3848)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4793)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4493)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4228)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3808)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4610)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4169)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6063)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4579)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4926)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4137)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4791)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5637)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3597)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4009)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4570)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5256)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3123)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4728)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4513)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4261)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4716)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4474)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4581)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7191)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5176)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4979)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4566)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5585)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5243)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4139)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 5984)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4698)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4850)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5457)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5597)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5789)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 4973)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4362)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant