Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thiết Thực Hiện Tại Qua Dụ Ngôn “lá Trong Bàn Tay Và Lá Trong Rừng”

26 Tháng Giêng 202309:25(Xem: 1746)
Thiết Thực Hiện Tại Qua Dụ Ngôn “lá Trong Bàn Tay Và Lá Trong Rừng”
Thiết Thực Hiện Tại Qua Dụ Ngôn “lá Trong Bàn Tay Và Lá Trong Rừng”

Thích Nữ
 Kiều Tuệ Quang


la bo de


Chân lý
 Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của sự vật cụ thể mà rất quen thuộc trong đời sống, khi nói ra ai cũng biết, nhằm lột tả những giá trị chân lý mà Ngài thuyết giảng, để giúp cho tất cả chúng ta dễ dàng hiểu sâu được chân lý đó. Vì thế, trong kinh điển có rất nhiều những dụ ngôn hay ngụ ngôn được Ngài mô tả để làm thí dụ, trong đó có dụ ngôn “Nắm lá trong tay và lá trong rừng”. Xuất xứ dụ ngôn này nằm trong Pali tạng, thuộc Kinh Tương Ưng bộ V, chương 12, phẩm Rừng Simsàpa; còn trong Hán tạng, thuộc Kinh Tạp A Hàm, Kinh 404. Thân Thứ.

Trong một buổi dừng chân tại rừng Simsàpa, thuộc nước Kosambi. Lúc đó, Đức Phật nhặt một nắm lá Simsàpa và hỏi các đệ tử: Nắm lá trong tay Ta nhiều hay ít hơn lá trong khu rừng này? Các Tỳ kheo đáp: Lá trong tay Thế Tôn ít rất nhiều lần so với lá trong khu rừng này.

Đức Phật nói: Đúng thế “Những gì Ta biết rõ bằng trí tuệ, giảng dạy dưới hình thức chân lý cho các thầy thật ra chỉ là những chiếc lá có trong lòng bàn tay thôi. Trong khi đó nguồn trí tuệ mà Ta biết, chứng ngộ, thấu hiểu nhiều như là những chiếc lá trong rừng này. Thế nhưng tại sao bao nhiêu năm qua Ta lại không thuyết giảng những điều ấy? Bởi vì những điều ấy chẳng liên quan gì đến mục đích, đến căn bản của đời sống Thánh thiện. Không đưa đến sự viễn ly tham áikết thúc sầu bi, hướng đến an tịnh và giải thoát” [1]. Do đó, khi Tôn giả Malunkyaputta hỏi Thế Tôn về những nghi vấn rằng: “Thế giới này là thường hay vô thườngthế giới là hữu biên hay vô biên, sinh mạng và thân này là một hay khác, Như Lai có tồn tại hay không tồn tại sau khi chết,…” [2]. Thế Tôn đã không trả lời, bỏ qua một bên những điều ấy, những gì không phải là căn bản của phạm hạnhlợi ích khi quỹ thời gian kiếp người ngắn ngủi, thì Ngài không dành nhiều thời gian cho những vấn đề đó, mà Ngài dành thời gian cho những điều thiết yếu, giúp mọi người áp dụng chân lý đó mà sống hạnh phúc trong đời

Vì thế, khi hướng dẫn chân lý Đức Phật đã có sự chọn lọc những gì cần thuyết giảng, nhằm mang lại sự khai mở tri thức “Khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến” [3], hướng đến đạo đứcđạt được an vui; cũng như “Mục đích của Đạo Phật là diệt khổ và đem vui cho mọi loài; nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạc và hạnh phúc. Và chỉ có trí tuệ (paññā) mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoát và giác ngộ” [4]. Còn những nguồn trí thức hiểu biết khác Ngài không cần thiết phải nêu ra. Do đó, là người con Phật chúng ta nên học theo phong cách truyền bá của Đức Phật, cái gì thật sự có ích cho mọi ngườichúng ta nên tình nguyện không mệt mỏi để trở thành một truyền thông viên cho các giá trị đó “Này các Tỳ kheo, hãy lên đường thuyết pháp vì hạnh phúc, vì an lạc cho chúng sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người.” [5].

Trong suốt 49 năm thuyết phápĐức Phật đã để lại 84.000 pháp môn tu, một con số ví von cho sự đa dạng vô cùng trong giáo huấn của Ngài. Như vậy, làm phép so sánh nhỏ, 84.000 pháp môn ấy chỉ là “Nắm lá trong tay”, trong khi đó nguồn tuệ giác mà Đức Phật khai thác được như là lá trong rừng, tỷ lệ đó lớn hơn gấp nhiều lần. Điều đó cho thấy, Đức Phật luôn ưu tiên nói những gì cần thiết, có lợi ích cho cuộc sống của con người. Do đó, ứng dụng vào cuộc sống, chúng ta cũng nên học theo cách của Đức Phật rằng đặt ra đâu là ưu tiên. Những gì cần phải đầu tư làm cho ưu tiên thì chúng ta không nên chần chừ, mà phải thực hiện việc đó ngay và luôn, đừng nên giống như một người bị bắn bởi mũi tên có tẩm độc. Bạn bè, bà con mời y sĩ đến trị thương nhưng người ấy nói: “Tôi sẽ không rút mũi tên ra nếu chưa biết rõ dòng tộc, tên họ, hình dáng, nơi ở của người bắn; tôi sẽ không rút mũi tên ra nếu chưa biết cung tên được làm bằng chất liệu và cấu tạo thế nào? Tẩm chất độc gì?…” [6]. Kết quả, người ấy sẽ chết mà vẫn không biết được gì. Vì thế, khi một người bị trúng tên, việc cần thiết là phải nhổ mũi tên ra khỏi cơ thể để tránh tử vong. Sau khi chữa lành vết thương rồi tìm hiểu về nguồn gốc của mũi tên đó cũng chẳng muộn gì.

Cho nên, cần ưu tiên cho những cái quan trọng bằng cách đổ dồn hết tâm sức của mình với phương pháp đúng, để chúng ta có cơ hội biến ước mơ trở thành hiện thực. Và trong khi làm việc, giao tiếp với xã hội phải biết chọn lọc những tinh hoa, cốt tủy như “Người vào trong rừng đem lõi cây về, chớ đừng đem cành cây, lá cây và vỏ cây” [7]. Thực hiện được như vậy, chúng ta sẽ được đánh giá cao và trở nên có giá trị trong cuộc sống. Vì thế, cái gì thật sự có lợi ích và mang lại những giá trị hướng đến sự hạnh phúcchấm dứt khổ đau thì cái đó được Đức Phật chọn lọc như là những chiếc “Lá nắm trong lòng bàn tay” khi Ngài thuyết pháp trong suốt 49 năm, với lời tuyên bố: “Này các Tỳ kheo, xưa cũng như nay Ta chỉ nói lên hai điều đó là khổ và sự diệt khổ” [8].

THỨ NHẤT

Sự khổ

Đây là thực tại mà chúng sinh hằng chịu khổ, với: Sinh, già, bệnh, chết liên hệ đến cơ thể, cũng bởi do vô minh mê muộitham lamluyến áiham muốn mà ra. Và con người nếu chưa tu hành cho đắc đạo thì còn khổ nữa. Bởi khổ còn có nhiều mối đem lại đó là: Tam khổLục khổBát khổ.

Tam khổ

1. Khổ khổCon người đang chịu hết sự khổ này đến sự khổ khác, nào là đói khát, tật bệnh, nào là thiên lai dịch bệnh,… cái khổ này kéo thêm cái khổ khác dài mãi, mà tấm thân phải ưu não không dứt.

2. Hoại khổ: Cái khổ này chỉ sự hư hoại, bởi người, vật mà mình ưa thích thì lần lần hư hoại mất đi, nhân đó mà mình cảm thấy khổ.

3. Hành khổ: Tức là nỗi khổ khi nhận ra vạn vật ở thế gian này chịu sự chi phối của vô thường, cứ chuyển dời biến đổi mãi, nên tâm sinh ra khổ não.

Lục khổ

Gồm: “Nhân khổ, quả khổ, cầu tài vị khổ, cần thủ hộ khổ, vô yếm túc khổ, biến hoại khổ” [9].

Bát khổ

Gồm: “Sinh, lão, bệnh, tử, thương yêu mà phải chia ly, ghét nhau mà phải hội ngộ, mong muốn mà không toại nguyện và chấp vào thân thể vật lý này là thường hằng” [10]. Đó là những khổ đau thuộc về tâm lý và thái độNgoài ra còn có những nỗi khổ niềm đau khác như: Sầu, bi, ưu, não tác động chi phối con người rất nhiều. Vì thế, Đức Thế Tôn có nhiệm vụ “Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối…” [11], giúp chúng ta thấy rõ và nhận diện đâu là nguyên nhân dẫn đến sự khổ và dạy chúng ta bản lĩnh để đối diện với sự khổ đó. Đó là bước thứ nhất mà trong giáo lý gọi là Khổ đế (Dukkha) trong Tứ Diệu Đế.

THỨ HAI

Xác định: Tâm tham lam, tâm giận dữ hận thù, tâm si mê thiếu hiểu biết, tâm cố chấp bảo thủ,… là những tâm khổ đau mà Đức Phật dạy chúng ta khoanh vùng, bằng cách truy tìm các nguyên nhân của nỗi khổ niềm đau. Bởi, trong cùng một hoàn cảnh, nhưng người này không sao còn người kia lại đau khổ, người khác giàu chúng ta lại nghèo, người này thành công người kia lại thất bại. Điều này, không thể đổ lỗi cho ông thần ông thánh hay ông thượng đế nào có thể ban phước giáng họa, mà tất cả đều theo quy luật nhân quả của nó, vì Đức Phật đã dạy: “Tất cả chúng sanh đều mang theo nghiệp (Kamma) của chính mình như một di sản, như vật di truyền, như người chí thân, như chỗ nương tựa. Chính vì nghiệp riêng của mỗi người mỗi khác nên mới có cảnh dị đồng giữa các chúng sanh” [12]. Hiểu được như vậy, chúng ta sẽ có được niềm tin đúng với chánh pháp, mang lại sự tiến bộ và sự thành tựu trong cuộc sống, mà không phải rơi vào con đường lung lạc, mù quáng thiếu hiểu biết theo lối ‘Niềm tin’ của sự mê tín và dị đoan như: “Tin ông đồng bà cốt, tin xin xăm bói quẻ, tin ngày lành tháng dữ, tin số mạng sang hèn, tin coi tay xem tướng, tin cúng sao giải hạn, tin có một người ban phước giáng họa,…” [13] làm ảnh hưởng xấu, dẫn đến sự bất ankhổ não. Vì thế, trong những hoàn cảnh đó, chúng ta nên chịu khó phân tích từng tình huống, thì chắc chắn rằng sẽ tìm ra được nguồn gốc hay nguyên nhân dẫn đến thực trạng đau khổ này. Đây là Tập đế (Samudaya).

THỨ BA

Dập tắt phiền nãođạt được đỉnh cao của sự hạnh phúcan lạc đó là Niết bàn (Nirvana/Nibbàna) bây giờ và tại đây mà không phải chờ sau khi qua đời. Vì Niết bàn không phải là cảnh giới Phật, cũng không phải là cõi Phật mà Niết bàn là trạng thái tâm thanh tịnh, khi mà toàn bộ khổ đau và nguyên nhân gây tạo ra sự khổ đau ấy đã kết thúc. Đó chính là Diệt đế (Nirodha).

THỨ TƯ

Thực tập con đường Bát Chánh Đạo gồm cóChánh kiến (Sammà Ditthi) và Chánh tư duy (Sammà Sankappa) (thuộc về trụ cột trí tuệ); Chánh ngữ (Sammà Vàcà), Chánh nghiệp (Sammà Kammanta), Chánh mạng (Sammà Ajivà), Chánh tinh tấn (Sammà Vàyàma) (thuộc về trụ cột đạo đức); Chánh niệm (Sammà Sati) và Chánh định (Sammà Samàthi) (thuộc về trụ cột thiền định). Đó là Đạo đế (Magga).

Đây là bài kinh thứ 2 sau bài Kinh Chuyển Pháp LuânĐức Phật nói về tính thực tiễn trong chân lý cho 5 vị trước kia cùng tu khổ hạnh với Ngài, rằng: Đây là khổ, đây là nguyên nhân của khổ và tìm ra con đường diệt khổ một cách nhanh chóng không vòng vo, không dài dòng, không lan man như người trúng mũi tên độc kia. Cho nên, Đức Phật hiếm khi dành nhiều thời gian cho những vấn đề đó, mà Ngài chỉ rõ khổ đau và con đường chấm dứt sự khổ đau đó để đi đến hạnh phúc Niết bàn, đây chính là trọng tâm của chân lý Phật, hễ ai đi đúng con đường đó thì kết quả hạnh phúc sẽ có mặt. Vì thế, những điều Thế Tôn dạy như nắm lá trong bàn tay tuy ít nhưng là chìa khóa để mở cửa kho tàng tuệ giác của lá cây trong rừng, cũng như tháo mắt xích của Mười hai nhân duyên: “Vô Minh diệt, các Hành diệt, do các Hành diệt Danh Sắc diệt, do Danh Sắc diệt Lục nhập diệt,….” [14] tháo gỡ được một cái thì những mắt xích khác cũng sẽ ra, hay “Cái này có mặt nên cái kia có mặt; do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt; do cái này sanh nên cái kia sanh; do cái này diệt nên cái kia diệt” [15]. Cho nên, chỉ cần khảo sát tường tận một phần nắm lá ấy, tự khắc chúng ta sẽ hiểu được bản chất của toàn bộ lá cây trong rừng mà thôi.

Vì thế, dụ ngôn lá trong tay, xác định về chủ trưởng thiết thực hiện tại của Đức Phật. Đây là dụ ngôn nói về tính thực tiễn cuộc sống, đó là bài học về sự khổ, nguyên nhân mang lại khổ và làm thế nào để chấm dứt sự khổ.

Tóm lại, nắm lá Simsàpa trong bàn tay là những điều liên hệ đến mục đích giải thoát, là căn bản cho phạm hạnh, đưa đến ly thaman tịnh, thắng trí, giác ngộ và niết bàn. Cho nên, những gì căn bản và cần thiết nhất cho một đời người ngắn ngủi thì Đức Phật thuyết giảng, nhằm giúp chúng sinh vượt thoát khổ đau để sống an lạchạnh phúc. Vì thế, dụ ngôn lá trong tay, xác định về chủ trương thiết thực hiện tại của Đức Phật. Đây là dụ ngôn nói về tính thực tiễn cuộc sống, đó là bài học về sự khổ, nguyên nhân mang lại khổ và làm thế nào để chấm dứt sự khổ. Thực hiện đúng theo phương pháp mà Đức Phật đã dạy như thế, thì chắc chắn rằng khổ đau sẽ chấm dứt và chỉ còn lại sự an lạc hạnh phúc luôn luôn có mặt với chúng ta ngay trong cuộc sống hiện tại này, mà trong nhà Phật thường hay gọi với tên “Hiện tại lạc trú” là đây.

NCS.Thích Nữ Kiều Tuệ Quang

 

Chú thích:

* NCS SC. Thích Nữ Kiều Tuệ QuangNghiên cứu sinh Tiến Sĩ khóa II, Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh.

[1] Kinh Tương Ưng bộ V, Chương 12, Phẩm Rừng Simsàpa, HT. Thích Minh Châu dịch, VNCPHVN ấn hành 1993, tr.635.

[2] Trung Bộ II, Tiểu Kinh Malunkya, số 63, HT. Thích Minh Châu dịch, VNCPHVN ấn hành 1992, tr.193.

[3] Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, HT. Thích Trí Tịnh dịch, 2007, Nxb. Tôn giáo, tr.66.

[4] Thích Minh Châu (2012), Trí Tuệ Trong Đạo Phật, Trích Hãy Tự Thắp Đuốc Lên Mà Đi, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, tr.70.

[5] Trường Bộ I, Kinh Đại BổnĐại tạng kinh Việt Nam, VNCPHVN ấn hành, 1991, tr.502. 

[6] Trung Bộ II, Tiểu Kinh Màlunkyà, số 63, HT. Thích Minh Châu dịch, VNCPHVN ấn hành 1992, tr.193.

[7] Trung Bộ I, Đại Kinh Thí Dụ Lõi Cây (Mahasaropamasuttam), số 29, HT. Thích Minh Châu dịch, VNCPHVN ấn hành 1992.

[8] Trung Bộ I, Kinh Ví Dụ Con Rắn (Alagaddùpama sutta), số 22, HT. Thích Minh Châu dịch, VNCPHVN ấn hành 1992, tr.140.

[9] Nguyên Huệ dịch, Luận Du Già Sư Địa, quyển 44, Địa thứ 15: Địa Bồ Tát (phần bản địa), 2013, Nxb. Hồng Đức.

[10] Kinh Tương Ưng V, Thiên Đại Phẩm, Chương 12, Phẩm Chuyển Pháp Luân, HT. Thích Minh Châu dịch.

[11] Kinh Tương Ưng I, Chương VII: Tương Ưng Bà La Môn, Phẩm A-la-hán Thứ Nhất, HT. Thích Minh Châu dịch, tr.156.

[12] Narada Maha Thera, Đức Phật và Phật Pháp, Phạm Kim Khánh dịch, (2013), Nxb. Tổng hợp, TP.HCM, tr.157.

[13] Di Giáo Kinh [ Kinh Lời Dạy Cuối Cùng], Phần Dịch nghĩa: Phần Chánh tông, (2010), Đoàn Trung Còn – Nguyễn Minh Tiến việt dịch và chú giải, Nxb. Tôn giáo, tr.30.

[14] Trung Bộ Kinh III, 115. Kinh Đa Giới (Bahudhàtuka sutta), phần Duyên khởi, HT. Thích Minh Châu dịch, VNCPHVN ấn hành 1992.

[15] Kinh Tiểu Bộ 1, Kinh Phật Tự Thuyết Hay “Lời Cảm Hứng”, Chương 1: Phẩm Bồ Đề, HT. Thích Minh Châu dịch, (1999), TP. Hồ Chí Minh, tr.115.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1278)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1436)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1066)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1168)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1187)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1590)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1551)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2713)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1720)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1267)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1134)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1179)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1298)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1235)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1835)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1576)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1785)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1713)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2252)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1670)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 1999)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 1989)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2155)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1750)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1862)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 1929)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1842)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 1994)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1825)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1762)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1844)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1777)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2052)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2148)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1856)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 1974)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1738)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1791)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2290)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2188)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3682)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2337)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 2996)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2366)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 1941)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1708)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3203)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2235)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 2926)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2586)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 1936)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 2897)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2536)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3424)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3279)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4103)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3592)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4152)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2253)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant