Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Một Điểm Xuân Quang Chốn Chốn Hoa

29 Tháng Giêng 202309:27(Xem: 1510)
Một Điểm Xuân Quang Chốn Chốn Hoa

Một Điểm Xuân Quang Chốn Chốn Hoa

Nguyễn Thế Đăng

hinh phat 7

 


Bảo hàng học giả

Học giả phân vân chẳng biết sao
Mài chi gạch ngói uổng công lao
Bảo anh cửa người thôi nương dựa
Một điểm xuân quang chốn chốn hoa.

Thị học

Học giả phân phân bất nại hà
Đồ tương linh đích khổ tương ma
Báo quân hưu ỷ tha môn hộ
Nhất điểm xuân quang xứ xứ hoa.

 

Đây là bài thơ của Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230 – 1291), chấm dứt bằng một câu nói về mùa xuânmùa xuân bất tử.

 

Học giả phân vân chẳng biết sao”.

Ý thức luôn luôn rơi vào cạm bẫy của chính nó. Cạm bẫy đó là những khái niệm mâu thuẫn với nhau. Trong khi đó, thực tại thì, nói theo Trung luận và các kinh điển:

Chẳng sanh cũng chẳng diệt
Chẳng thường cũng chẳng đoạn
Chẳng một cũng chẳng khác
Chẳng đến cũng chẳng đi.

Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác, nếu đến thì không phải là đi. Ý thức luôn luôn bị đóng băng trong những khái niệm và hoạt động trong những khái niệm đã đóng băng ấy.

Ý thức không thể vượt khỏi bốn câu (tứ cú): có, không, vừa có vừa không, không có không không. Để không bị loanh quanh trong chân lý tương đốiquy ước (thế đế) mà nhảy vào chân lý tuyệt đốitối hậu, người ta phải vượt khỏi “tâm, ý, ý thức”.

 

Mài chi gạch ngói uổng công lao”.

Mài gạch ngói thì không thể thành tấm gương được. Câu chuyện mài gạch ngói như thế này.

Có vị tăng tên là Đạo Nhất hàng ngày chuyên ngồi thiềnThiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượngđệ tử của Lục Tổ, hỏi: “Đại đức ngồi thiền để mong cầu cái gì?” Tăng đáp: “Để mong thành Phật”.

Sư Hoài Nhượng lấy một cục gạch mài trên phiến đá trước am của Đạo Nhất. Vị này hỏi:

“Sư làm gì thế”?
- Mài gạch để làm gương soi.
- Mài gạch lại có thể thành gương sao?
- Mài gạch nếu không thành gương thì ngồi Thiền há có thể thành Phật sao?
- Vậy thế nào mới đúng?
- Như trâu kéo xe, nếu xe không đi thì đánh xe là phải hay đánh trâu là phải?

Đạo Nhất lặng thinh. Sư Hoài Nhượng nói:

- Ông học ngồi Thiền hay học ngồi Phật? Nếu học ngồi Thiền thì Thiền không phải chuyện ngồi nằm, nếu học ngồi Phật thì Phật không có tướng nhất địnhĐối pháp không trụ, chẳng nên nắm bỏ. Ông nếu ngồi Phật tức là giết Phật, nếu chấp tướng ngồi thì chẳng đạt chân lý Phật vậy”.

Nếu xe không đi thì đánh xe là phải hay đánh trâu là phải? Người bình thường hay chấp vào pháp môn và không nghĩ rằng pháp môn không quan trọng bằng người đang sử dụng pháp môn ấy. Tất cả các pháp môn là để thấy và sống được với người đang sử dụng pháp môn: người ấy là bản tâmbản tánh của tâm, Phật tánh, “vô vị chân nhân” (TS. Lâm Tế), tự kỷ Phật…

Nếu chấp rằng chỉ có pháp môn ngồi Thiền mới là thấy được Phật thì không chừng sự bám chấp ấy lại che chướng việc thấy Phật, vì Phật không có tướng nhất định. Phật hay bản tâm không ở trong, không ở ngoài mà cũng ở trong ở ngoài. Phật là “không trụ, chẳng nên nắm bỏ”.

 

Bảo anh cửa người thôi nương dựa”.

Hãy chớ nương dựa vào ngôn ngữý tưởng, khái niệm và làm việc trên mặt bằng ý thức tạo thành bằng những thứ ấy thì chỉ loanh quanh trong những mâu thuẫn căn bản không giải quyết được, không thể hài hòa, hội nhập chúng với nhau được. Thiền là tìm thấy nguồn tâm, từ đó những ý tưởng khởi xuất và lại tan vào trong đó, chứ không chạy theo các ý tưởng để phân biệt, so đo. Nguồn tâm ấy không bị ô nhiễm bởi các ý tưởng, các kinh gọi là bản tâmPháp thântánh Không, Phật tánh… Như sóng có thể vô số, nhưng không thể làm đại dương biến chấtsanh diệt, tăng giảm, dơ sạch.

 

Một điểm xuân quang chốn chốn hoa”.

Một điểm xuân quang là một điểm linh quangthành ngữ để chỉ bản tâm. Trong kinh thường nói đến viên ngọc tâm, viên ngọc như ý.

Trên đỉnh tháp để cất giữ xá lợi hay thân xác của vị tăng, rõ nhất là các tháp Tây Tạng hiện nay, trên những lớp tượng trưng cho đất, nước, lửa, gió, không, thức, đều có một khối tròn là một viên ngọc, có ngọn lửa tỏa sáng, để chỉ một điểm linh quang này. Các tháp ở Việt Nam cũng thế, như tháp vua Trần Nhân Tông ở Ngọa Vân, Yên Tử. Các bảo tháp để các pháp khí Phật giáo cho tín đồ nhiễu quanh cũng có một viên ngọc tỏa sáng trên đỉnh, tượng trưng cho giác ngộPhật tánh, Phật tâm…

Một điểm xuân quang để chỉ bản tâm của mỗi người. Nhưng tại sao nói là “một điểm”, mà không nói các điểm? Một điểm vì trong bản tâm, trong Phật tâm, tất cả đều là một, đều là “một vị”, không có cái gì khác, cái gì ngoài. Không có chúng sanh ở ngoài mà cũng không có Phật ở ngoài.

Một điểm linh quang hay một điểm xuân quang để chỉ trong bản tâm, trong bản tánh của tâm chỉ có một vị là ánh sáng, một vị bản tâm hay Chân tâm.

Một điểm bản tâm này bao trùm trời đất, một điểm linh quang này cho phép tất cả mọi hiện hữu đều xuất hiện trong đó. Thế nên Thiền sư Huyền Sa Sư Bị (835 – 908) nói:

“Tột mười phương thế giới là một viên ngọc sáng”.

Thiền sư Nhật Bản Đạo Nguyên (thế kỉ 13) có giảng về Một Viên Ngọc Sáng (Chánh Pháp Nhãn Tạng) như thế này:

“Mắc viên ngọc ấy trong búi tóc hay dưới hàm được xem là đạo – chớ cố gắng chưng diện nó ra ngoài búi tóc hay hàm. Có một người bạn thân thiết cho các ông viên ngọc khi các ông say rượu. Vào lúc viên ngọc được đeo, người ta luôn luôn say rượu. Đang là như vậy là một viên ngọc sáng, nó là toàn thể thế giới trong mười phương. Cái đang là này, dù những khuôn mặt có vẻ thay đổi, dù quay hay không quay, nó vẫn là một viên ngọc sáng. Nó biết chính xác rằng viên ngọc vốn xưa nay tự là viên ngọc sáng như vậy. Viên ngọc sáng có sắc và thanh được thấy nghe như vậy. Vốn như vậy, nhưng càng lo rằng mình không phải là viên ngọc sáng, người ta sẽ nghi ngờ rằng nó không phải là viên ngọc. Lo âu và nghi ngờ, lấy và bỏ, làm và không làm, tất cả đều là cái thấy tạm thời của tâm lượng nhỏ hẹp. Thú vị là nó không phải vậy - những huy hoàng và ánh sáng của viên ngọc là vô hạn. Mỗi lóe sáng, mỗi tia sáng, mỗi lộng lẫy, mỗi ánh sáng là một phẩm tính của toàn thể thế giới trong tất cả mười phương. Ai có thể lấy chúng đi được?” (Shobogenzo – Thomas Cleary dịch, 1991 - Chánh Pháp Nhãn Tạng, Nguyễn An Cư dịch, nxb Thiện Tri Thức, 2003).

 

Một điểm xuân quang chốn chốn hoa”:

Trong bản tâm Phật tánh của mỗi người, trong viên ngọc tâm đang có sẳn nơi mỗi người, có một mùa xuân bất tử. Trong viên ngọc, mỗi sự vật đều là ngọc, đều tỏa ánh sáng và hương thơm khắp mười phương thế giới, để biến cuộc đời tầm thường chúng ta đang sống đây, thành “chốn chốn hoa”. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1645)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1575)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1495)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1077)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1466)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1411)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1333)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1381)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1710)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1970)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1434)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1095)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1428)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2025)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1470)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1552)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1389)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2905)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1377)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1410)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1723)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1680)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1632)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1476)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2643)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1603)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1613)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1404)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1423)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1616)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1562)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1444)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1429)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1520)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2202)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1547)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1621)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1837)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1533)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1412)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1669)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1422)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1700)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2380)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1471)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1954)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1681)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1760)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1620)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1955)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1685)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1441)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1729)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1582)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1548)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1337)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1254)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1297)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1527)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1656)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant