Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sự Đa Dạng Của Nghiệp-Phân Biệt Nghiệp

03 Tháng Hai 202307:19(Xem: 1521)
Sự Đa Dạng Của Nghiệp-Phân Biệt Nghiệp
Sự Đa Dạng Của Nghiệp-Phân Biệt Nghiệp

Thích Thanh Hòa
Sự Đa Dạng Của Nghiệp

Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý. Thế nhưng, vào thời kỳ Phật giáo Bộ phái, các bộ luận nối tiếp nhau ra đời; các luận chủ đi sâu vào phân tích nghĩa lý đã được nói vắn tắt trong các kinh làm cho giáo lý được triển khai ra nhiều phương diện; các khái niệm cũng theo đó mà trở nên phức tạp từ tên gọi cho đến phạm vi ý nghĩa. Để giúp người học Phật hiểu cặn kẽ tính chấtý nghĩa của nghiệp, các bộ luận như Câu-xá, Tì-bà-sa… đã phân tích khái niệm nghiệp dưới nhiều góc độ, tạo nên sự đa dạng trong cách phân loại. Dưới đây là các loại nghiệp đã được tìm thấy trong tam tạng giáo điển, và sự phân loại này chủ yếu dựa trên luận Câu-xá.
1- Xét về bản chất của hành động, nghiệp gồm có hai loại: tư nghiệp và tư dĩ nghiệp. Tất cả mọi hành động có ý thức (có tác ý) của chúng ta đều bắt nguồn từ hoạt động của tâm sở tư (cetanā). Khi hành động mới được suy tư tính toán, chỉ tồn tại ở dạng xung động thì gọi là tư nghiệp – hành động đang ở giai đoạn dự định; một khi xung động ấy được thể hiện ra bên ngoài thành cử chỉlời nói qua trung gian của thân, miệng thì gọi là tư dĩ nghiệp – hành động đã qua giai đoạn dự định. Các luận sư chia hoạt động của tâm sở tư thành ba giai đoạn: thẩm lự tư: giai đoạn suy tư tính toán; quyết định tư: giai đoạn quyết tâm làm hay không làm; và phát động thắng tư (cũng gọi phát động tư): giai đoạn suy tư chuyển thành hành động (cử chỉlời nói). Theo đó, hai giai đoạn thẩm lự tư và quyết định tư thuộc về tư nghiệp, giai đoạn phát động thắng tư thuộc về tư dĩ nghiệp[1].
2- Xét theo cửa ngõ phát sinh, nghiệp có ba loại: thân nghiệpkhẩu nghiệp và ý nghiệpÝ nghiệp là hoạt động của tâm, mà cụ thể là tâm sở tư ở giai đoạn thẩm lự và quyết định, cũng chính là tư nghiệp. Tâm sở tư vào giai đoạn phát động (tư dĩ nghiệp) sẽ dẫn khởi hoạt động của thân và miệng tạo thành thân nghiệp và khẩu nghiệp. Luận Thành thật, phẩm Nghiệp tướng, nói: “Nghiệp có ba loại: thân nghiệpkhẩu nghiệpý nghiệp. Những gì do thân tạo tác gọi là thân nghiệp...; tích tập thiện ác do lời nói gọi là khẩu nghiệp...; tâm quyết định giết hại chúng sanh lúc ấy tích tập thiện ác gọi là ý nghiệp”[2]. Đây là sự phân loại phổ biến nhất trong kinh điểnđức Phật căn cứ trên ba loại nghiệp này mà giảng giải về nghiệp đạo của chúng sinh cũng như chế định các điều khoản của giới.
3- Xét theo khía cạnh biểu hiện ra bên ngoài hay không biểu hiện ra bên ngoài mà chia thành biểu nghiệp và vô biểu nghiệp. Xung động của tâm hay sự suy tư tính toán được phát động ra nơi thân một cách rõ ràng gọi là thân biểu nghiệp; trong khi khởi lên thân biểu nghiệp như vậy, bên trong vẫn có năng lực vô hình thúc đẩy thân hành động hay không hành động, cái đó được gọi là thân vô biểu nghiệpNgữ nghiệp cũng có hai loại ngữ biểu nghiệp và ngữ vô biểu nghiệp tương tự như vậy. Ý nghiệp thuộc tâm pháp, không thuộc sắc nên không có biểu và vô biểuTuy nhiên, Luận Thành thật, phẩm Vô tác, nói rằng ý nghiệp có vô biểu (vô tác)[3].
Với 5 loại nghiệp kể trên, giữa các bộ phái có sự tranh biện bất đồng về thể của chúng. Phái Hữu bộ (Sarvāstivāda) và Cụ duyên (Prāsaṅgika) cho rằng thể của thân biểu nghiệp là hình sắc, vì do thân mà có; còn ngữ biểu nghiệp lấy âm thanh làm thể, vì do lời nói mà có. Thế nhưng Kinh lượng bộ (Sautrāntika) và Duy thức phái (Vijñānavādin) cho rằng 2 nghiệp ấy đều là tâm pháp vì do tâm sở tư mà có. Về vô biểu nghiệp thì Hữu bộ cho rằng thuộc về vô biểu sắc, sắc này do tứ đại chủng tạo thành, có thật thể; còn Kinh lượng bộ cho rằng do chủng tử huân tập của tâm sở tư mà giả lập, không có thật thể.
Các loại nghiệp trong 3 cách phân loại trên có thể được hệ thống lại thành biểu đồ sau:

2 nghiệp: Tư nghiệp; Tư dĩ nghiệp
3 nghiệp: Ý nghiệp;Thân nghiệpNgữ nghiệp
5 nghiệp:Ý nghiệp; Thân biểu; Thân vô biểu; Ngữ biểu; Ngữ vô biểu

4- Xét về tính chấthành vi được chia thành ba tính: thiện, ác, vô ký (không thiện không ác) do đó mà có thiện nghiệpác nghiệp, và vô ký nghiệp. Trong đó, chỉ có hai nghiệp thiện, ác mới có năng lực dẫn sanh quả báo trong các cõi.
Lại nữa, thiện ác tuy nhiều nhưng đều phát sanh từ ba nghiệp thân, khẩu, ý. Kết hợp thân, khẩu, ý với hai tính thiện, ác tạo thành 10 thiện nghiệp đạo và 10 ác nghiệp đạo. Trước nói 10 ác nghiệp đạo, đó là: 1-sát sanh; 2-trộm cắp; 3-tà hạnh; 4-nói dối; 5-nói hai lưỡi; 6-nói thô ác; 7-nói thêu dệt; 8-tham dục; 9-sân hận; 10-tà kiến. Trong đó, 3 chi đầu thuộc về thân, 4 chi tiếp theo thuộc về khẩu, 3 chi cuối thuộc về ý. 10 thiện nghiệp đạo là từ bỏ 10 ác nghiệp đạo trên[4].
5- Như trên đã nói về biểu nghiệp và vô biểu nghiệpvô biểu nghiệp chính là năng lực tiềm tại khiến cho biểu nghiệp được thuần thụcVô biểu nghiệp phối hợp với tính thiện, ác, vô ký tạo thành 3 loại vô biểu nghiệp[5] như sau:
5.1- Luật nghi vô biểu: là vô biểu thuộc thiện. Gồm có ba: 1-biệt giải thoát luật nghi vô biểu: là vô biểu thiện có được do thọ trì giới. 2-tịnh lự luật nghi vô biểu: là vô biểu thiện có được trong khi nhập định. 3-vô lậu luật nghi vô biểu: là vô biểu thiện phát sinh khi có tâm vô lậu (tâm không nhiễm ô). Ba loại vô biểu này chính là năng lực hộ trì giới, bảo vệ đời sống thanh tịnh.
5.2- Bất luật nghi vô biểu: là khả năng làm ác tiềm tại trong tâm, khả năng này hình thành do bởi huân tập hành vi ác hoặc lời thề làm ác.
5.3- Phi luật nghi phi bất luật nghi vô biểu: tức là loại vô biểu thuộc về vô ký, không thiện không ác.
6- Tùy theo tính khả ái và không khả ái của quả lãnh thọ ở trong ba cõi mà chia làm 3 loại nghiệp: phước nghiệpphi phước nghiệp, và bất động nghiệp. Ở cõi dục, thiện nghiệp chiêu cảm quả báo khả ái ở loài hữu tình gọi là phước nghiệpác nghiệp chiêu cảm quả báo xấu (không khả ái) gọi là phi phước nghiệpThiện nghiệp chiêu cảm quả báo ở hai cõi sắc và vô sắc gọi là bất động nghiệp.
7- Căn cứ trên ba thọ lạc, khổ và xả, nghiệp được phân loại thành thuận lạc thọ nghiệp: nghiệp dẫn tới quả báo lạc ở dục giớisơ thiềnnhị thiền và tam thiềnthuận khổ thọ nghiệpnghiệp ác dẫn tới quả báo khổ ở cõi dục; và thuận bất khổ bất lạc thọ nghiệp: nghiệp thiện dẫn tới quả báo bất lạc bất khổ ở cõi Tứ Thiền trở lên trời Hữu Đảnh.
8- Theo thời gian thọ lãnh quả báo, 3 loại thuận thọ trên mỗi loại đều có định và bất định. Luận Câu-xá nói: “thuận lạc thọ... được nói ở trên, mỗi loại đều có định và bất định sai khác. Thời gian thọ báo không nhất định nên gọi là bất định nghiệp. Định lại có 3: 1-thuận hiện pháp thọ nghiệp, 2-thuận thứ sanh thọ nghiệp, 3-thuận hậu thứ thọ nghiệp. Ba loại định nghiệp này cùng với bất định nói trên tổng cộng thành 4 loại”[6]. Hình tướng 3 loại định nghiệp này như thế nào? Luận Tì-bà-sa, quyển 114 nói: “Nếu nghiệp tạo tác trong đời này tăng trưởng, ngay đời này thọ quả dị thục, gọi là thuận hiện pháp thọ nghiệp... Nếu nghiệp tạo tác trong đời này tăng trưởng, đời kế tiếp thọ quả dị thục, gọi là thuận thứ sanh thọ nghiệp... Nếu nghiệp tạo tác trong đời này tăng trưởng, đến đời thứ ba, đời thứ tư, hoặc những đời sau nữa mới lãnh thọ quả dị thục, gọi là thuận hậu thứ thọ nghiệp”[7]. Ba loại định nghiệp này dẫn sinh 3 loại quả báo tương đương: hiện báosanh báo và hậu báo.
9- Tùy theo nghiệp tương ưng với thân thọ hay tâm thọ mà phân thành thân thọ nghiệp và tâm thọ nghiệp. Tâm thọ nghiệp là nghiệp chiêu cảm quả dị thục do tâm lãnh thọ, đó là nghiệp thiện không có tâm sở tầm của loài hữu tình từ định Trung gian (giữa Sơ thiền và Nhị thiền) lên đến trời Hữu đảnh (Sắc Cứu Cánh Thiên). Thân thọ nghiệp chiêu cảm quả dị thục do thân lãnh thọ chứ không do tâm lãnh thọ, là nghiệp ác ở Dục giới.
10- Luận Câu-xá lại nói rằng thân khẩu ý mỗi cái đều có 3 pháp chướng đạo là khúc, uế và trược do 3 phiền não siểm, sân và tham gây nên. Do nơi tâm siểm mà khởi lên thân, khẩu, ý nghiệp gọi là khúc nghiệp; do nơi tâm sân mà khởi lên thân, khẩu, ý nghiệp gọi là uế nghiệpdo nơi tâm tham mà khởi lên thân, khẩu, ý nghiệp gọi là trược nghiệp. Về ý nghĩa của 3 loại nghiệp này, Đại thừa nghĩa chương, quyển 7, giải thích: “Siểm (nịnh hót) thì tâm không ngay chánh, khó ra khỏi sanh tử, khó đạt được Niết-bàn, cũng như cây cong queo khó ra khỏi rừng rậm nên gọi là khúc; 3 nghiệp khởi lên từ khúc pháp (pháp cong queo) này đều gọi là khúc, bởi vì nguyên lý nhân quả tương tợ của nó vậy. Tâm sân nhuế (giận dữ) có khả năng làm dơ bẩn bản thân và người khác cho nên gọi là uế (dơ bẩn); nghiệp thân, khẩu, ý khởi lên từ các pháp dơ bẩn được gọi là uế, bởi vì nhân quả tương tợ nhau vậy. Tham thì tâm vẩn đục, cũng như nước đục, nên gọi là trược (đục); nghiệp thân, miệng, ý khởi lên từ các pháp vẩn đục được gọi là trược”[8].
11- Dựa theo các tính chất khác nhau của nghiệp và quả, có 4 loại nghiệp: hắc hắc nghiệpbạch bạch nghiệphắc bạch hắc bạch nghiệp và phi hắc phi bạch nghiệpCác loại ác nghiệp vì tính chất nhiễm ô nên gọi là hắc, quả dị thục của nó cũng gọi là hắc bởi vì nó gây ra sự không ưng ý, nghiệp đó gọi là hắc hắc nghiệp, nghiệp này chỉ giới hạn ở Dục giới. Nghiệp thiện ở Sắc giới vì không tạp lẫn ác pháp nên gọi là bạch, quả của nó cũng được gọi là bạch vì tính chất dễ chịu, đó là bạch bạch nghiệp. Ở Dục giớithiện nghiệp thường bị ác pháp xen tạp nên gọi là hắc bạch, quả của nó cũng xen tạp tính xấu ác nên cũng gọi là hắc bạch, đó gọi là hắc bạch hắc bạch nghiệp. Các nghiệp vô lậu có năng lực đoạn trừ vĩnh viễn 3 loại nghiệp đã kể, vì tính chất không nhiễm ô nên gọi là phi hắc; hơn nữa, nó không chiêu cảm quả bạch (quả thiện hữu lậu) nên cũng gọi là phi bạch; do đó gọi là phi hắc phi bạch nghiệp[9].
12- Ba nghiệp mâu-ni: Bậc Vô học vì ý (tâm) xa lìa phiền não, mọi hoạt động của thân, khẩu, ý đều tịch tĩnh cho nên gọi là thân, ngữ, ý mâu-ni. Mâu-ni nghĩa là tịch mặc, không dấy động phiền nãoHoạt động của các loại chúng sanh thấp kém cho đến hàng Hữu học luôn luôn bị phiền não chi phốimóng tâm động niệm đều là tạo nghiệp sanh tử cho nên gọi là thân, khẩu, ý nghiệp. Bậc Thánh Vô học thì không như vậy, mọi hoạt động đều hợp với pháp tánhtịch tĩnh không nhiễm trước cho nên thân hoạt động thì gọi là thân mâu-ni, miệng hoạt động thì gọi là ngữ mâu-ni, ý hoạt động thì gọi là ý mâu-ni. Lại nữa, do tạm thời và vĩnh viễn xa lìa các pháp ô nhiễm cho nên mọi hoạt động của bậc Thánh vô học đều trở thành diệu hạnh; ba diệu hạnh thân, ngữ, ý được gọi là ba thanh tịnhthân thanh tịnh, ngữ thanh tịnh và ý thanh tịnh. Mâu-ni là thể, thanh tịnh là tướng, diệu hạnh là dụng.
13- Ba diệu hạnh và ba ác hạnh: Ba diệu hạnh là tất cả các thiện hạnh (thiện nghiệp) thuộc về thân, khẩu, ý của phàm phu và thánh giảCâu-xá luận ký, quyển 16, nói: “Chánh cảm quả báo tốt đẹp, được người trí khen ngợi cho nên gọi là diệu; vận động chuyển đổi liền đem lại lợi ích nên gọi là hạnh”[10]. Trái với ba diệu hạnh là ba ác hạnh. Mọi ác nghiệp của thân, khẩu, ý được gọi là ba ác hạnh: thân ác hạnh, ngữ ác hạnh, và ý ác hạnh. Riêng ý ác hạnh bao gồm cả 3 phiền não tham, sân và tà kiến chứ không phải chỉ có ý nghiệp, vì ba phiền não này có tự thể riêng biệt đối với tâm sở tư (ý nghiệp)[11]. Tuy nhiên, có chỗ nói rằng tham, sân và tà kiến chính là ý ác hạnh như các luận sư thuộc Thí dụ bộ (Kinh lượng bộ).
14- Tùy theo nghiệp lực chiêu cảm quả báo dưới dạng tổng thể hay chi tiết mà Kinh Luận nói đến 2 loại nghiệp: dẫn nghiệp và mãn nghiệp. Nghiệp có năng lực dẫn sinh các loài chúng sinh trong các nẻo luân hồi gọi là dẫn nghiệp, còn gọi là tổng báo nghiệp bởi nó dẫn sinh quả báo tổng thể của bộ loại. Nghiệp có năng lực hoàn thiện các chi tiết của tổng báo, tạo thành sự khác biệt như xấu đẹp, cao thấp... trong mỗi bộ loại gọi là mãn nghiệp, còn gọi là biệt báo nghiệp. Như nghệ nhân, trước tiên tạo lập kiểu dáng của cái cần vẽ sau đó mới đi vào các họa tiết; dẫn nghiệp chiêu cảm quả báo ở dạng bộ loại chung chung, như loài người thì có dáng vẻ hai tay, hai chân, đầu, mặt, mắt, mũi...; căn cứ trên tổng báo căn bản đó, mãn nghiệp tạo nên những nét riêng biệt giữa những con người với nhau, như có người thì cao, có người thì thấp...
15- Phái Tân thượng tọa bộđại diện là Ngài Phật Âm (Buddhaghoṣa), còn căn cứ trên 3 bình diện: thời gianhành tướng và quả báo nặng nhẹ mà chia thành 12 loại nghiệp như sau:
15.1- Chia theo thời gian: có 4 loại nghiệp: 1\ Cấp hiệu nghiệp: là loại nghiệp chiêu cảm quả báo trong đời này, nếu bị một tha lực nào đó cản trở không thể trổ thành quả trong đời này thì nghiệp ấy không còn hiệu lực nữa. 2\ Hoãn hiệu nghiệp: là loại nghiệp chiêu cảm quả báo trong đời kế tiếp nhưng nếu gặp trở duyên mà không hiện hành thì vĩnh viễn không còn hiệu lực. 3\ Vô định kỳ hiệu nghiệp: là loại nghiệp nhất định sẽ chiêu cảm quả báo vào thời điểm bất kỳ trong tương lai, trừ phi người tạo nghiệp chứng đắc Niết-bàn trước thời điểm thọ báo. 4\ Bất hiệu nghiệp: còn gọi là dĩ hữu nghiệp, là nghiệp bị tiêu do bản thân nó yếu hoặc bị nghiệp khác mạnh hơn lấn át.
15.2- Theo tướng trạng hoạt động, nghiệp được chia thành 4 loại như sau: 1\ Năng sanh nghiệp: là năng lực tiềm ẩn khiến cho “tưởng” phát khởi, đó cũng chính là hoạt động của hữu trong 12 chi phần duyên khởi. Nghiệp này tiềm ẩn, chờ trợ lực bên ngoài mà phát thành hiện hành hoặc không. 2\ Năng trì nghiệp: là nghiệp lực duy trì sự tồn tại của năng sanh nghiệp nói trên. 3\ Năng tiêu nghiệp: là nghiệp có năng lực khiến cho 2 loại nghiệp trên không hiện hành. 4\ Năng hủy nghiệp: nghiệp này mạnh hơn cả năng tiêu nghiệp, nó có khả năng nhổ tận gốc rễ của các loại nghiệp đang hiện hành hoặc sẽ hiện hành.
15.3- Căn cứ trên quả báo, có 4 loại: 1\ Cực trọng nghiệp: là nghiệp có năng lực rất mạnh, có khả năng lấn át các nghiệp khác, bao gồm cả thiện hoặc ác. Nhưng bất luận là thiện hay ác, nó có thể hoặc là năng sanh nghiệp, hoặc là năng trì nghiệp, hoặc là năng tiêu nghiệp, hoặc là năng hủy nghiệp. 2\ Cận tử nghiệp: là chỉ nghiệp lực được hình thành ngay trước lúc một chúng sanh nào đó chết. Nếu chúng sanh ấy không có cực trọng nghiệp để quyết định con đường tái sanh thì cận tử nghiệp sẽ làm nhiệm vụ như dẫn nghiệp để chiêu cảm quả báo đời sauTư tưởng niệm Phật vãng sanh chủ yếu dựa trên quan niệm này. 3\ Tập quán nghiệp: là nghiệp được hình thành do tập quán hành động, suy tư. Lúc gần chết, nghiệp này có thể chuyển thành cận tử nghiệp để tái sanh. 4\ Tích lũy nghiệp: là nghiệp được tích lũy trong nhiều đời nhiều kiếp, chỉ chờ hội đủ duyên là biểu hiện thành quả báo, nó có thể trở thành tập quán nghiệp hoặc cận tử nghiệp. Du-già tông nói nghiệp là dị thục thức (thức a-lại-da) là vì vậy, bởi vì thức a-lại-da huân tập chủng tử từ vô thủy trở lại, chỉ chờ cơ hội để phát triển thành hiện hành (phát triển thành quả).
16- Ngoài ra, Du-già tông (Yogācāra) còn dựa trên năng lực biến tợ của tâm (năng lực biến thành cảnh tượng tương tợ, tức là căn thân và thế giới) mà chia thành cộng nghiệp và biệt nghiệp (bất cộng nghiệp). Cộng nghiệp là nghiệp dẫn đến quả báo chung mà mọi người cùng nhận lãnh, nó tương đương với cộng biến, như mọi người cùng sinh ra trên cùng một lãnh thổ thì phải nhận lãnh những điều kiện xã hộitự nhiên như nhau. Tuy vậy, trong cùng một môi trường như nhau ấy vẫn có những sự khác biệt, như trong làng chài lại có người không làm nghề đánh bắt cá mà đi buôn, đó gọi là biệt nghiệp, tương đương với tự biến. Luận nói: “Thế nào là cộng nghiệp? Nếu nghiệp tạo ra khí thế gian với các thứ sai biệt gọi là cộng nghiệp. Bất cộng nghiệp là gì? Nếu nghiệp khiến tạo ra hữu tình thế gian với các loại sai biệt gọi là bất cộng nghiệp”[12]. Như thế, y báo (thế giới vật chất) được hình thành do cộng nghiệp của các loài hữu tình, còn thế giới chánh báo (nói rộng là mỗi cá nhân, nói hẹp là tâm thức của mỗi cá nhân trong thế giới này) là do biệt nghiệp chiêu cảm thành. Tuy phân chia thành 2 loại như vậy nhưng thực chất cộng nghiệp và biệt nghiệp vẫn thường đan xen với nhau tạo thành sự phồn tạp của thế giới.
Trên là những loại nghiệp mà kinh luận đề cập đến, tùy theo cách nhìn mà có nhiều cách phân loại khác nhau. Nghiệp tuy nhiều nhưng có thể nói gọn không ngoài nghiệp thiện ác của thân, miệng và ý, cụ thể là sự thực hành 10 nghiệp đạo như đã nói.
Nghiệp là năng lực tiềm tại được hình thành do hành vi của mỗi cá nhân và chính là năng lực dẫn thần thức đi tái sanh. Với giáo lý nghiệp ấy, Đức Phật đã thật sự đưa con người ra khỏi vòng kiềm tỏa của thế giới vong thân mà ở đấy chỉ có quyền năng của đấng sáng tạo hoặc dòng chảy thác loạn của ngẫu nhiên tính. Giờ đây, con người làm chủ lấy bản thân họ, làm chủ vị thần sáng tạo của tự thân và chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình.

Thích Thanh Hòa.

[1] Du-già luận ký, q. 5 (Đại 42, số 1828, tr. 0360c20): 審決定思名思業。發動勝思名思已所起身語業: Thẩm quyết định tư danh tư nghiệp, phát động thắng tư danh tư dĩ sở khởi thân ngữ nghiệp.
[2] Thành thật luậnNghiệp tướng phẩm: Đại 32, số 1646, trang 0289c.
[3] Ibid. q.7, Vô tác phẩm: Đại 32, số 1646, trang 0290a.
[4] Thập thiện nghiệp đạo kinh: Đại 15, số 600, trang 158a.
[5] Đây là 3 loại nghiệp trong số 13 loại của Hiển dương Thánh giáo luận đưa ra: 1- thân nghiệp, 2- ngữ nghiệp, 3- ý nghiệp, 4- luật nghi sở nhiếp nghiệp, 5- bất luật nghi sở nhiếp nghiệp, 6- câu phi sở nhiếp nghiệp, 7- phước nghiệp, 8- phi phước nghiệp, 9- bất động nghiệp, 10- hắc hắc dị thục nghiệp, 11- bạch bạch dị thục nghiệp, 12- hắc bạch hắc bạch dị thục nghiệp, và 13- phi hắc bạch vô dị thục nghiệp (Hiển dương Thánh giáo luận, q.19: Đại 31, số 1602, tr.0573c12-16).
[6] A-tì-đạt-ma-câu-xá luận, q.15: Đại 29, số 1558, tr.0081c09-12.
[7] A-tì-đạt-ma Đại Tì-bà-sa luận, q.114: Đại 27, số 1545, tr.0592b.
[8] Đại thừa nghĩa chương, q.7: Đại 44, số 1851, tr.0606b12-17.
[9] Cf. HT. Thích Minh Châu, Kinh Tăng chi bộ II, chương Bốn pháp, phẩm Nghiệp, tr.259.
[10] Câu-xá luận ký, quyển 16: Đại 41, số 1821, trang 0252c.
[11] A-tì-đạt-ma-câu-xá luận, quyển 16: Đại 29, trang 0084b.
[12] Đại thừa A-tì-đạt-ma tạp tập luận, q.7: Đại 31, tr.0729a. Cf. Thành duy thức luận diễn bí: Đại 43, tr.0868a.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1626)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1034)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1512)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1494)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1676)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1942)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1526)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1353)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1372)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1549)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1143)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1264)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1277)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1696)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1643)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3004)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1825)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1365)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1220)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1278)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1410)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1325)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1925)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1683)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1891)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1824)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2393)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1786)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2128)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2230)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2302)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1855)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1977)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2031)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1958)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2595)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1947)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1885)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1945)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1897)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2168)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2302)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1983)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2087)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1887)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1905)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2412)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2323)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3998)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2481)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3197)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2471)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2046)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1798)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3305)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2346)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3031)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2702)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 2025)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant