Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bồ Tát Hạnh Phật Hóa Thế Gian

09 Tháng Hai 202309:32(Xem: 1334)
Bồ Tát Hạnh Phật Hóa Thế Gian

Bồ Tát Hạnh Phật Hóa Thế Gian


Nguyễn Thế Đăng


Bo Tat

Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tátĐời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.

Tôi sẽ trừ diệt phiền não cho tất cả chúng sanh. Tôi phải đóng cửa các nẻo đường xấu ác cho tất cả chúng sanh, mở cửa các nẻo đường tốt thiện cho tất cả chúng sanh… Dũng mãnh phấn chấn tiến lên, vì có thể ở trong trận chiến lớn sanh tử, diệt tan tất cả phiền não oán thù”. (những câu kinh trích trong bài này đều lấy từ Phẩm Ly Thế Gian thứ 38, Kinh Hoa Nghiêm).

Để tiến hành trận chiến lớn lâu dài như vậy, ngoài những đức tính, những nguyện hạnh, từ bi… được nói đến rất nhiều trong kinh, người tu hạnh Bồ tát cần phải có quan niệm đúng, cái nhìn đúng (chánh kiến) về sanh tử và tất cả chúng sanh. Không có cái thấy đúng về những đối tượng cần giúp đỡ, cứu độ, thì không thể chịu đựng nổi, mệt mỏichán ngán, và phải bỏ môi trường và cũng là chiến trường sanh tử.

 

1/ Cái thấy đối tượng chúng sanh cần cứu giúp

Bồ tát làm việc vì chúng sanh, vì thấy chúng sanh khổ đau, nghèo nàn, mê ngủ… nên phát tâm đại bi:

Các Phật tử! Đại Bồ tát dùng mười pháp quán sát chúng sanh mà khởi đại bi:
Quán sát chúng sanh tánh khí chẳng điều thuận mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh nghèo cùng không có thiện căn mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh mãi mãi ngủ mê mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh làm pháp chẳng thiện mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh bị dục trói buộc mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh chìm trong biển sanh tử mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh mãi mang bịnh khổ mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh không muốn pháp thiện mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh mất những Phật pháp mà khởi đại bi.
Bồ tát hằng dùng tâm này quán sát chúng sanh”.

 

Đại bi là động lực làm việc của Bồ tát. Nhưng sự làm việc ấy không làm cho Bồ tát mệt mỏi, nản chí, vì Bồ tát hành động với cái thấy thật tướng của chính mình và của chúng sanh. Không những với chúng sanh, mà với những phiền não vô tận của chúng sanhBồ tát vẫn “chẳng kinh sợ”, vì biết chúng “vốn không có tạo tác”:

Đại Bồ tát thấu rõ tự thân và chúng sanh vốn xưa nay tịch diệt, chẳng kinh sợ, mà siêng tu phước trí không nhàm đủ. Tuy biết tất cả pháp vốn không có tạo tác mà cũng chẳng bỏ tự tướng các pháp. Tuy nơi các cảnh giới lìa hẳn tham dục, mà thường thích chiêm ngưỡng ca ngợi sắc thân chư Phật. Tuy biết ngộ nhập các pháp chẳng do nơi người khác, mà dùng nhiều phương tiện cầu nhất thiết trí. Tuy biết các quốc độ đều như hư không mà thường thích trang nghiêm tất cả cõi Phật. Tuy hằng quán sát không có người, không có ta, mà giáo hóa chúng sanh không nhàm mỏi. Tuy nơi pháp giới xưa nay bất động, mà dùng thần thông trí lực hiện các biến hóa. Tuy nhất thiết chủng trí vốn đã thành tựu, mà không ngừng nghỉ tu Bồ tát hạnh. Tuy biết các pháp không thể nói năng mà chuyển pháp luân thanh tịnh làm cho đại chúng hoan hỷ”.

Ta và người vốn xưa nay tịch diệt, vốn là tánh Không, không có người không có ta nhưng vẫn làm Bồ tát hạnh thuyết pháp độ sanhtrang nghiêm cõi Phật. Như thế Bồ tát hạnh khiến hành giả đi sâu và rộng vào pháp giới Chân Không - Diệu Hữu.

Cách hành văn “Tuy… mà” hợp nhất hai sự mâu thuẫn đối nghịch tưởng chừng như không thể dung hòa được lại là Trung đạo của Bồ tát.

Trí minh của Bồ tát thấy thật tướng của tất cả chúng sanh, từ đó với tâm đại bi gánh vác tất cả chúng sanh:

Trí minh duyên khởi thiện xảo biết tất cả chúng sanh, sanh vốn không sanh vì thấu đạt sự thọ sanh bất khả đắc… Thế nên Bồ tát thường giáo hóa chúng sanh thân không mỏi nhọc, chẳng trái việc làm của tất cả thế gian.

Trí minh thiện xảo nơi Phật vô trước, chẳng sanh tâm nhiễm trước. Nơi pháp vô trước chẳng sanh tâm nhiễm trước. Nơi cõi vô trước chẳng sanh tâm nhiễm trước. Nơi chúng sanh vô trước, chẳng sanh tâm nhiễm trước. Chẳng thấy có chúng sanh mà thật hành giáo hóa điều phục thuyết pháp, nhưng cũng chẳng bỏ đại bi đại nguyện, thấy Phật nghe pháp tùy thuận tu hànhy chỉ nơi những thiện căn của Như Lai cung kính cúng dường không ngừng nghỉ”.

Thấy chúng sanh như vậy, làm việc như vậy, phiền não khổ đau của chúng sanh như vậy, nên hành động mà vẫn giải thoát, đi dần vào pháp giới Hoa Nghiêm của chư Phật.

 

2/ Cái thấy thế gian, môi trường của sự cứu độ

Bồ tát thấy thế gian, mọi sự vật và mọi chúng sanh, tất cả các pháp, đều như sự huyễn, như mộng, có xuất hiện nhưng thực chất là tánh Không:

Quyết định biết rõ tự tánh của tâm. Đây là công cụ trợ đạo thứ sáu, vì có thể làm cho tâm mình và người được thanh tịnh.

Quán sát năm uẩn đều như sự huyễn, mười tám giới như rắn độcmười hai xứ như rỗng không. Tất cả pháp như huyễn, như sóng nắng, như trăng trong nước, như mộng, như bóng, như tiếng vang, như hình (trong gương), như vẽ giữa hư không, như vòng lửa quay, như màu cầu vồng, như ánh sáng mặt trời mặt trăngkhông tướng không hình, chẳng phải thường chẳng phải đoạn, chẳng đến chẳng đi, cũng không chỗ trụ. Quán sát như vậy thì biết tất cả các pháp vô sanh vô diệt. Đây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ bảy, vì biết tánh tất cả pháp là không tịch”.

Quyết định biết rõ tự tánh của tâm: tự tánh hay bản tánh của tâm vốn là tánh Khôngsáng tỏ và không thể ô nhiễm nên có thể làm cho tâm mình và người được thanh tịnh.

Tất cả các pháp như huyễn, như mộng, như sóng nắng, như trăng trong nước… nghĩa là có xuất hiện, nhưng không thậtQuán sát như vậy thì biết tất cả các pháp vô sanh vô diệt, tức là vô sanh pháp nhẫn.

Thấy tất cả các pháp đều duyên khởi, tức là thấy trực tiếp các pháp là tánh Không, và tánh Không chính là sự thanh tịnh không cái gì có thể làm ô nhiễm:

Đại Bồ tát thấy pháp duyên khởi nên thấy pháp thanh tịnh. Vì thấy pháp thanh tịnh nên thấy cõi nước thanh tịnh. Vì thấy cõi nước thanh tịnh nên thấy hư không thanh tịnh. Vì thấy hư không thanh tịnh nên thấy pháp giới thanh tịnh. Vì thấy pháp giới thanh tịnh nên thấy trí huệ thanh tịnh. Đây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ mười của Bồ tát, vì tu hành tích tập nhất thiết trí”.

Khi trí huệ khai mở, Bồ tát thấy môi trường làm việc cứu độ của mình là cõi nước thanh tịnh cho đến pháp giới đều thanh tịnh.

Đại Bồ tát biết tất cả pháp bản tánh thanh tịnh, không nhiễm trước không nhiệt não, vì do khách trần phiền não mà thọ các khổ. Biết như vậy rồi, đối với các chúng sanh mà khởi đại bi, tên là Bản tánh thanh tịnh, vì họ mà thuyết pháp vô cấu quang minh thanh tịnh.

Đại Bồ tát biết tất cả pháp như dấu chim trong hư khôngchúng sanh si mù, chẳng thể quán sát chiếu rõ các pháp, với họ khởi tâm đại bi, tên là Chân thật trí, vì họ mà khai thị pháp Niết bàn”.

Qua hoạt động Bồ tát hạnhBồ tát thấy biết môi trường thế gian là sự biểu lộ của tánh Không thanh tịnh và đại bi thanh tịnh.

 

Qua Bồ tát hạnhBồ tát thấy rõ tánh và tướng của thế gian, tất cả pháp đều là Phật pháp, từ đó thế gian này chuyển hóa thành cõi nước Phật:

Lại nghĩ rằng: tôi sẽ khắp vì tất cả thế gian mà thực hành Bồ tát hạnh, khiến quang minh thanh tịnh của tất cả pháp chiếu sáng tất cả Phật pháp. Khi phát tâm này quyết định không nghi.

Lại nghĩ rằng tôi sẽ biết tất cả pháp đều là Phật pháptùy tâm chúng sanh, vì họ mà diễn nói đều khiến khai ngộ. Lúc phát tâm này quyết định không nghi”.

Biết tất cả pháp đều là Phật phápBồ tát có tất cả phương tiện thiện xảo để khai ngộ cho chúng sanh. Về phần Bồ tát, việc biết tất cả pháp đều là Phật pháp khiến tất cả thế gian chuyển hóa thành cõi nước Phật.

 

3/ Cái thấy bản chất của hành động cứu giúp

Thể nhập tánh Không và đại bi thanh tịnhBồ tát làm việc mà không có người làm, không có ngã, nhân, chúng sanhthọ mạng. Thế nên, ngay khi đang cứu độBồ tát tiến vào giải thoátgiác ngộ:

Đại Bồ tát quán sát như vầy: Không có một pháp nào tu Bồ tát hạnh, không có một pháp nào viên mãn Bồ tát hạnh, không có một pháp nào giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh, không có một pháp nào cung kính cúng dường tất cả chư Phật. Không có một pháp nào đối với Vô thượng Giác ngộ đã thành, đang thành, sẽ thành. Không có một pháp nào đã nói, đang nói, sẽ nói. Người nói và pháp đều bất khả đắc, mà cũng không bỏ nguyện Vô thượng Giác ngộ, vì Bồ tát cầu tất cả pháp đều vô sở đắc, như thế mới sanh ra Vô thượng Giác ngộ. Thế nên nơi pháp tuy vô sở đắc mà siêng tu tập tăng trưởng nghiệp lành, thanh tịnh đối trịtrí huệ viên mãn niệm niệm tăng trưởng, đầy đủ tất cả. Tâm Bồ tát chẳng kinh sợ, chẳng nghĩ rằng: nếu tất cả pháp đều vốn tịch diệt thì tôi cầu đạo vô thượng đâu có ý nghĩa gì? Đây là tâm tăng trưởng như núi thứ mười”.

 

Bồ tát làm tất cả mọi việc để giúp đỡ, cứu độ chúng sanh, công việc này do tâm đại bi, nhưng mọi hành động đều ở trong trí huệ tánh KhôngVô tướngVô nguyệnTrí huệ tánh Không là trí huệ thanh tịnh, và đại bi không vướng mắc bởi chúng sanh và bởi đủ thứ phiền não của họ là đại bi thanh tịnh.

Không đến không đi là hạnh tu của Bồ tát, vì ba nghiệp thân, ngữ, ý không động tác.

Chẳng tăng chẳng giảm là hạnh tu của Bồ tát, vì như bản tánh.

Chẳng có chẳng không là hạnh tu của Bồ tát, vì không có tự tánh.

Như huyễn, như mộng, như bóng, như vang, như hình trong gương, như sóng nắng khi trời nóng, như mặt trăng trong nước là hạnh tu của Bồ tát, vì lìa tất cả sự bám nắm.

Không, Vô tướngVô nguyệnVô tác là hạnh tu của Bồ tát, vì thấy rõ ba cõi mà tích tập phước đức không ngừng nghỉ”.

 

Tóm lại, đối tượng chúng sanhthế giới chúng sanh, hành động cứu giúp của Bồ tát đều trở nên thanh tịnh nhờ vào tánh Không thanh tịnh và đại bi thanh tịnh. Đó là con đường Bồ tátBồ tát hạnh, khiến cho thế giới chúng sanh chuyển hóa thành cõi nước thanh tịnh, một cõi Phật

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11049)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12095)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12325)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20476)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12343)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12358)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11634)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11508)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22311)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13485)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29486)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11445)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16592)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 11896)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16733)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 11983)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17845)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12518)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13045)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14659)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22484)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10489)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 13957)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13796)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13626)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13785)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13817)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14732)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13708)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18292)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22654)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15278)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17190)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22302)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14157)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12476)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11063)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17650)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13096)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 12992)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18688)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17063)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13381)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12807)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14584)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14548)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15741)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13405)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27276)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13075)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16585)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21289)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
(Xem: 18686)
Bồ Tát Quan Thế Âmhiện thân của Từ Bi, Ngài phát đại nguyện thực hiện từ bi cùng tận trong đời vị lai, nếu chúng sinh còn đau khổ. Vì chỉ có từ bi mới giải trừ đau khổ...
(Xem: 22954)
Tự tính các pháp chính là Tự Thể của các pháp. Vì các duyên hòa hợp sinh ra các pháp nên nếu các duyên tan rã thì các pháp mất do đó các pháp khôngtự tính cá biệt.
(Xem: 19961)
Ðọc Bát Nhã Tâm Kinh, tôi thấy như có một luồng gió mới, nó phá bỏ tất cả quan niệm, chối bỏ luôn cả cái hiện hữu. Tôi viết bài nầy theo sự hiểu biết đơn giản của tôi...
(Xem: 9358)
Tác Giả: Thiền Sư Bhante Henepola Gunaratana, Việt Dịch: Diệu Liên Lý Thu Linh; Nhà xuất bản Phương Đông
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant