Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật Pháp Tại Thế Gian, Chẳng Lìa Thế Gian Mà Giác

Saturday, February 25, 202318:14(View: 2035)
Phật Pháp Tại Thế Gian, Chẳng Lìa Thế Gian Mà Giác
Phật Pháp Tại Thế Gian, Chẳng Lìa Thế Gian Mà Giác
(Lục Tổ Huệ Năng)


Nguyễn Thế Đăng

Đức Phật Sử Dụng Thần Thông, Phép Lạ Như Thế Nào

Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn, cho đến khi chính thức xuất gia để dạy pháp, ngài không hề ẩn tu một mình. Trong suốt từ khi, thấy được tự tánh, đại ngộ ngài không ngừng tự giác - giác tha, lợi mình - lợi người, như dạy cho sư Huệ Minh trên đường đi lánh nạn chẳng hạn.

 Một vị thực hành Bồ tát đạo là vừa tự giác vừa giác tha, ở giữa cuộc đời cùng với mọi người. Cách tu của Lục Tổ là thấy bản tánh và sống sâu rộng bản tánh ấy giữa thế gian, trong đời sống hàng ngày, trong những điều tưởng chừng nhỏ nhặt:

Nếu khôngtâm đạo
Hạnh tối chẳng thấy đạo
Nếu thật người tu đạo
Chẳng thấy lỗi thế gian.
Nếu thấy người khác lỗi
Tự mình đã sai rồi
Người lỗi ta chẳng chê
Ta chê, ta có lỗi.
Chỉ dẹp tâm thấy lỗi
Phiền não thảy phá trừ
Thương ghét chẳng dính tâm
 Nằm duỗi hai chân nghỉ.
 Muốn độ cho người khác
 Cần phảiphương tiện
 Chớ để người có nghi
 Tức là tự tánh hiện.
 Phật pháp tại thế gian
 Chẳng lìa thế gian (mà) giác
 Lìa thế tìm giác ngộ
 Giống như tìm sừng thỏ.
Chánh kiến gọi xuất thế
 Tà kiến gọi thế gian
 Chánh tà đều dẹp sạch
 Tánh giác ngộ rõ ràng.
 (phẩm Trí Huệ, Pháp Bảo Đàn Kinh)

 “Giác ngộ” là giác ngộ tánh Không. “Tánh giác ngộ” là tánh Không. Thế gian là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, lìa năm uẩn mà tìm tánh Không thì “giống như tìm sừng thỏ”, vì bản tánh của  năm uẩntánh Không.

 Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, của mình là tánh Không (vô ngã), sắc, thọ, tưởng, hành, thức, của người là tánh Không (vô pháp). Như thế tất cả thế gian sanh tửtánh Không, bản tánh của thế gian sanh tửtánh Không. Đây là kết luận của Đại thừa: “Sanh tử tức Niết bàn, phiền não tức Bồ đề.”

 

Lục Tổ Huệ Năng chỉ rõ tánh Không, tức là Đại Trí huệ tánh Không rốt ráo (Ma ha Bát nhã ba la mật) trong phẩm Trí huệ như sau:

Các thiện tri thức! Trí Bát nhã giác ngộ, người đời đều vốn tự có, chỉ vì chuyên theo tâm mê nên chẳng thể tự ngộ. Phải nhờ đại thiện tri thức chỉ dẫn cho thì được thấy tánh. Hãy biết, người ngu kẻ trí tánh Phật vốn không sai khác, chỉ do mê ngộ chẳng đồng mà có ngu có trí…

 Thiện tri thức! Ma ha Bát nhã ba la mật là tiếng Phạn, nghĩa là trí huệ đến bờ giải thoát.  Cái này phải tâm làm chứ chẳng ở nơi miệng niệm. Miệng niệm tâm làm, ắt tâm miệng tương ưng. Bản tánh là Phật, lìa tánh thì không có Phật nào khác.

 Sao gọi là Ma ha? Ma ha là lớn, tâm lượng rộng lớn như hư không, không có biên bờ cũng không vuông tròn lớn nhỏ, xanh vàng đỏ trắng, cũng không giận, không vui, không phải không trái, không lành không dữ, không đầu không cuối. Các cõi Phật đồng như hư không, diệu tánh của người đời vốn Không, không pháp nào có thể đắc. Tự tánh chân không cũng lại như vậy

Bản tánh phật, trí Bát nhã, tự tánh chân không người đời đều vốn tự có, đây Nền tảng, Con đường và Quả của Phật giáo. Con người phải chứng thực được “tâm lượng rộng lớn như hư không” để giải thoát, giác ngộ.

 Lục Tổ nói tiếp:

Thiện tri thức! Chớ nghe ta nói Không bèn bám chấp không. Thứ nhất chớ bám chấp không, nếu tâm trống không mà ngồi yên lặng tức là bám chấp vào cái không vô ký.

Thiện tri thức! Hư không thế giới bao hàm sắc tướng vạn vật, mặt trời mặt trăng, tinh tú, núi sông đất đai, suối rừng, người thiện người ác, pháp thiện pháp ác, thiên đường địa ngục, tất cả đều ở trong cái Không. Tánh Không của người đời cũng lại như vậy.

Thiện tri thức! Tự tánh bao hàm muôn pháp, đó gọi là lớn. Muôn pháp đều ở trong tánh của con người. Nếu thấy tất cả những điều xấu tốt của người mà đều chẳng lấy bỏ, cũng không dính nhiễm, tâm như hư không, đó gọi là lớn, nên nói là Ma ha.

 Thiện tri thức! Người mê thì miệng nói, người trí thì tâm làm. Lại có người mê, tâm trống không mà tĩnh tọa, trăm thứ không nghĩ, bèn tự cho đây là lớn. Với hạng người ấy không thể nói được, vì mắc vào tà kiến.

 Thiện tri thức! Tâm lượng rộng lớn khắp cả pháp giới, dùng tới bèn rõ rõ phân minh. Ứng dụng liền biết hết thảy, tất cả là một, một là tất cả, đến đi tự do, tâm thể không trệ ngại tức là Trí huệ Bát nhã.

 Thiện tri thức! Hết thảy trí Bát nhã đều từ tự tánh mà sanh, chẳng phải từ ngoài vào, cho nên chớ dùng lầm ý, đó gọi là Chân tánh tự dụng”.

 Chỉ trong một đoạn này, ngài Huệ Năng hai lần bài bác việc ngồi thiền giữ tâm trống không, bám chấp vào cái không vô ký, nghĩa là cái không không có gì cả, kể cả ánh sáng Trí huệ.

 Tánh Khôngbao hàm sắc tướng vạn vật, tất cả đều ở trong cái Không”. Tánh Không bao trùm tất cả mọi sự, đồng thời tánh Không cũng ở trong tất cả mọi sự, “không có pháp nào có thể đắc”. Tánh Không bao trùm tất cả và là tất cả.

 Bản tánh của con người chính là tánh Không ấy nên có thể giải thoát: “Nếu thấy tất cả những điều xấu tốt của con người mà chẳng lấy bỏ, cũng chẳng dính nhiễm, tâm như hư không, đó gọi là lớn.” Thấy tướng thế gian nhưng chẳng lấy bỏ, chẳng dính nhiễm, tâm như hư không, nên có thể ở nơi thế gian với chúng sanh để cứu giúp họ.

Khi người ta nhận biết và sống thuần thục trong tánh Không ở nơi mình và ở ngoài mình nơi thế giớichúng sanh, người ta tự do. Không phải là tự do vì không có thế gian, không có sắc tướng nào cả, mà là tự do với tất cả thế gian, sắc tướng: “Tâm lượng rộng lớn khắp pháp giới, dùng tới bèn rõ rõ phân minh. Ứng dụng liền biết hết thảy, tất cả là một, một là tất cả, đến đi tự do, tâm thể không trệ ngại, tức là Trí huệ Bát nhã. Hết thảy trí Bát nhã đều từ tự tánh mà sanh, đó gọi là chân tánh tự dụng”.

 Phần sau, phẩm Hộ Pháp, ngài nói “chân tánh tự dụng” này là “tự tánh khởi dụng”, nghĩa là tự tánh Không này không phải là một cái không vô ký mà là hoạt dụng phi thường cho một vị Bồ Tát ở đời để độ chúng sanh:

 “Tự tánh động dụng, giao tiếp nói năng, ngoài thì ở nơi tướng mà lìa tướng, trong thì ở nơi không mà lìa không. Nếu toàn bám tướng tức là thêm lớn tà kiến, còn nếu toàn chấp không thì thêm lớn vô minh”.

Không bám tướng cũng không chấp không là trung đạo của Bồ tát. Một vị hành Bồ tát hạnh thì phải ở thế gian để cứu giúp chúng sanh cho nên tâm phải hoạt động, do đó ngài giảng về vô niệm không phải là không có niệm, không có ý tưởng nào cả:

Sao gọi là vô niệm? Nếu thấy biết hết thảy pháp mà tâm chẳng nhiễm dính, đó là vô niệm. Dùng thì khắp tất cả chỗ, mà cũng chẳng dính bám tất cả chỗ. Chỉ là bản tâm thanh tịnh, khiến sáu thức ra sáu cửa, ở trong sáu trần không nhiễm, không tạp, đến đi tự do, thông dụng không trệ, tức là Bát nhã tam muội, tự tại giải thoát, gọi là hạnh vô niệm.

 Nếu trăm vật chẳng nghĩ đến, khiến cho niệm dứt tuyệt, đó là pháp trói buộc, gọi là biên kiến” (Phẩm Trí Huệ).

Niệm không phải là kẻ thù cần phải tiêu diệt, mà niệm là dụng cụ để làm việc ở đời, bởi vì niệm lưu xuất từ nguồn tánh Chân Như:

 “Thiện tri thức! Vô là không có sự gì? Niệm là niệm cái gì? Vô là không có hai tướng, không có tâm trần lao. Niệm là niệm bản tánh Chân Như. Chân Như là thể của niệm, niệm là dụng của Chân Như.

 Tự tánh Chân Như khởi niệm, chẳng phải mắt tai mũi lưỡi có thể niệm được. Chân Như có tánh do đó mới có niệm khởi. Nếu Chân Như không có thì mắt tai sắc thanh liền tiêu hoại ngay.” (Phẩm Định Huệ)

Bồ tát là người sống trong thế giới các tướng cùng với chúng sanh, và chúng sanh cũng là các tướng. Sống trong thế giới các tướng, các niệm mà người hành Bồ tát hạnh vẫn giải thoát đối với các tướng, các niệm vì chẳng dính nhiễm.

Lục Tổ Huệ Năng nói về pháp môn của ngài lấy Vô niệm, Vô tướng, Vô trụ làm ba trụ cột. Trong kinh Đại Bát Nhã, vô niệm, vô tướng, vô trụ để chỉ tánh Không.

Thiện tri thức! Pháp môn đây của ta từ xưa đến nay, trước hết lập Vô niệm làm tông, Vô tướng làm thể, Vô trụ làm gốc.

Vô tướng là nơi tướng mà lìa  tướng. Vô niệm là nơi niệm mà vô niệm. Vô trụbản tánh của con người.” (Phẩm Định Huệ)

 Nơi tướng mà lìa tướng là nơi tất cả tướng tạo thành thế giới, chúng sanh, mà lìa tất cả tướng ấy. Thế nghĩa là sống nơi thế giới chúng sanh, làm việc vì chúng sanh mà tâm vẫn giải thoát. Vô niệmvô trụ cũng như vậy. Đây là Bồ tát hạnh.

Trong phẩm Sám Hối, Lục Tổ nói về Ba Thân: Thanh tịnh Pháp thân Phật, Viên mãn Báo thân và Trăm ngàn ức Hóa thân. Ba thân này chỉ có trong Phật giáo Đại thừa. Một vị Bồ tát thành tựu dần dần ba thân trên con đường Bồ tát hạnh cho đến hoàn toàn tròn đủ thì thành tựu Phật quả.

Trong ba thân ấy, Hóa thân là do lòng bi của Bồ tát hóa hiện ra trên nền tảng Pháp thânBáo thân. Lòng bi được khai triển trên con đường Bồ tát cho đến khi trọn vẹnđại bi của một đức Phật. Lục Tổ đã cảm nhận sâu sắc sự xuất hiện ở đời của Hóa thân Đức Phật là do lòng đại bi. Ngài nói với sư Pháp Đạt như sau:

Ông hãy cẩn thận, chớ hiểu lầm ý Kinh, thấy Kinh nói khai thị ngộ nhập mà cho đó là cái thấy biết riêng của Phật. Ngài đã là Phật, đã đầy đủ thấy biết, cần gì phải khai mở nửa. Nay ông phải tin cái thấy biết của Phật này chỉ là tự tâm của ông, chớ chẳng có Phật nào khác.

Tất cả chúng sanh vì tự che lấp ánh sáng, tham ái trần cảnh, ngoài thì duyên níu, trong thì nhiễu loạn, nên đành chịu rong ruỗi theo sanh tử. Bởi vậy mới làm nhọc Thế Tôn từ chánh định đứng dậy dùng bao nhiêu lời lẻ khuyên chúng sanh hãy thôi nghỉ, chớ hướng ngoài tìm cầu thì cùng Phật không khác. Cho nên nói khai mở cái thấy biết của Phật.

Ta nay cũng khuyên tất cả mọi người ở trong tâm mình thường khai mở cái thấy biết của Phật.” (Phẩm Cơ duyên)

Bồ tát hạnh Lục Tổ Huệ Năng dạy thì có mặt và thực hành trong đời sống hàng ngày, giữa những con người xã hội.

Công đức ở trong pháp thân, chớ chẳng phải ở chỗ tu phước. Thấy tánh là công, bình đẳng là đức. Niệm niệm không trệ ngại, thường thấy bản tánh, diệu dụng chân thật, đó gọi là công đức.

Trong tâm khiêm hạ là công, ngoài hành theo lễ là đức. Tự tánh kiến lập muôn pháp là công, tâm thể lìa niệm là đức. Chẳng lìa tánh mình là công, ứng dụng không nhiễm là đức.

Nếu tìm công đức pháp thân, hãy y theo đây mà làm, đó là chân công đức.”

(Phẩm Nghi vấn)

Ngài nói tiếp:

Người  tu công đức thì tâm chẳng khinh thường, mà thường kính trọng khắp cả mọi người mọi vật. Nếu tâm thường khinh người, ta và cái ta chẳng dứt, bèn tự mình không có công. Tánh mình giả dối chẳng thật, tức là mình không có đức. Bởi cái ta và cái của ta tự đại, thường khinh dễ hết thảy.”

Những đức tính tưởng chừng như tầm thường của con người, nếu biết chú tâm khai triển thì sẽ lấn át trừ bỏ những tính xấu, những lỗi lầm do bám chấp và khuếch trương “cái ta và cái của ta”. Những lỗi lầm che chướng của sự bám chấp vào cái ta và cái của ta càng tiêu hao thì “công đức Pháp thân” càng hiển lộ.

Vi thứ sử lại hỏi: Ở nhà tu hành như thế nào, xin Đại sư chỉ dạy.

Sư nói: Ta nói cho đại chúng một bài kệ Vô tướng, chỉ y đây tu thì thường cùng ở với ta một chỗ không khác. Bằng chẳng y đây tu thì cạo đầu xuất gia cũng không ích gì đối với đạo.

Tâm bằng nào nhọc giữ giới

Hạnh thẳng nào đợi tu thiền

Ân thì hiếu dưỡng cha mẹ

Nghĩa thì trên dưới cùng thương

Nhẫn thì xấu ác lặng yên

Nếu dùi cây mà ra lửa

Bùn lầy chắc nở sen hồng.

Đắng miệng đích là lương dược

Trái tai hẳn thiệt lời trung

Chuyển lỗi ắt sanh trí huệ

Xấu dỡ trong tâm chẳng hiền

Hằng ngày thường làm lợi ích

Thành đạo chẳng do thí tiền.

Giác ngộ chỉ hướng tâm kiếm

Nhọc chi hướng ngoại cầu huyền

Nghe nói y đây tu hành

Thiên đường chỉ ngay trước mắt.

Thấy tánh và sống trong tánh là việc làm hằng ngày trong đời sống thế gian. Chỉ là trau dồi những đức tính trên nền tảng bản tâm trí huệ; chuyển lỗi trở về nguồn cội trí huệ của từng niệm khởi. Được như thế thì “thiên đường chỉ ngay trước mắt”.

“Tâm bằng, hạnh thẳng, ân, nghĩa, nhẫn” là những biểu lộ của bản tâm hay bản tánh của tâm. Nếu trên những biểu lộ ấy người ta có thể tìm thấy bản tánh của tâm như nền tảng nằm phía dưới, thì đó là “ Nếu dùi cây mà ra lửa, bùn lầy chắc nở sen hồng.” Tu tâm trong đời sống bình thường là như vậy: nơi chổ có sóng hay không có sóng người ta có thể tìm thấy đại dương.

“Trí Bát nhã giác ngộ, người đời đều vốn tự có, chỉ vì duyên theo tâm mê nên chẳng thể tự ngộ”. “Phải biết người ngu kẻ trí tánh Phật vốn không sai khác.” Cái trí Bát nhã vốn tự có này, tánh Phật vốn không sai khác này vẫn thường hiện diện trong đời sống hàng ngày, “thiên đường chỉ ngay trước mắt”.

Thế nên Thiền sư Mã Tổ Đạo Nhất (709 – 788) đời thứ hai sau Lục Tổ, gọi nó là “tâm bình thường”, vì luôn luôn có mặt, “Tâm bình thường là Đạo”. Tổ sư Gampopa (1079 - 1153), vị sáng lập tông phái Kagyu cũng giảng nhiều về bản tâm như là “Tâm bình thường” (TT. Tamal gyi shepa) (Xem Những điểm thiết yếu của Đại Ấn, Khenchen Thrangu Rinpoche, nxb Thiện Tri Thức, từ trang 170 – 174)

Tâm bình thường này biểu lộ mỗi ngày, mỗi phút giây, mỗi niệm niệm, qua các tướng và niệm trong đời sống bình thường hàng ngày. Đây là tâm Vô tướng, Vô niệm, Vô trụ nói theo ngài Huệ Năng. Nhận biết được nó, sống với nó mà không lỡ mất bèn là người vô sự. Vô sự vì không phiền não, thương ghét.

Chỉ dẹp tâm thấy lỗi

Phiền não thảy phá trừ

Thương ghét chẳng dính tâm

Nằm duỗi hai chân nghỉ.

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 5013)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(View: 6047)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(View: 4450)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(View: 4573)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(View: 4565)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(View: 5496)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(View: 5049)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(View: 4883)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(View: 4502)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(View: 5591)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(View: 4865)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(View: 7064)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(View: 5253)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(View: 5549)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(View: 4849)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(View: 5606)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(View: 6344)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(View: 4330)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(View: 4643)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(View: 5174)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(View: 5961)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(View: 3742)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(View: 5315)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(View: 5319)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(View: 4866)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(View: 5327)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(View: 5222)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(View: 5136)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(View: 8050)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(View: 5773)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(View: 5626)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(View: 5190)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(View: 6207)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(View: 5985)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(View: 4744)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(View: 6723)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(View: 5414)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(View: 5422)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(View: 6164)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(View: 6360)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(View: 6494)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(View: 5595)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(View: 4995)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(View: 5331)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(View: 5258)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(View: 6564)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(View: 3738)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(View: 6050)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(View: 3350)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(View: 4819)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(View: 5818)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(View: 4827)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(View: 3772)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(View: 7183)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(View: 6543)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(View: 5331)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(View: 7018)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(View: 6800)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(View: 4638)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(View: 6880)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM