Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật GiáoVấn Đề Giai Cấp Xã Hội

27 Tháng Hai 202317:23(Xem: 1498)
Phật Giáo Và Vấn Đề Giai Cấp Xã Hội
Phật GiáoVấn Đề Giai Cấp Xã Hội

Thích Trung Định

Nghiệp & Dị Thục


Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.

Lịch sử đã cho thấy chiến tranh, xung đột, bạo lực đều có nguyên nhân từ sự phân biệt, kỳ thị giai cấp. Trong thời đại Đức Phật, sự phân biệt, kỳ thị giai cấp đã ăn sâu trong tư tưởng người Ấn và trở thành một trật tự xã hội. Lãnh đạo xã hội dựa trên giai cấp và được kế thừa theo huyết thống không thay đổi từ thế hệ này đến thế hệ khác.

Xã hội Ấn Độ cổ đại được chia thành bốn giai cấp. Đầu tiên là giai cấp Bà-la-môn (Brahmani) chưởng quản về các tư tế, các nhà trí thức, chú giải kinh điển Vedas, chuyên trách giáo dục. Giai cấp thứ hai là Sát-đế-lợi (Kshatriya) gồm các nhà lãnh đạo, tướng lãnh, các chiến sĩ. Giai cấp thứ ba là Phệ-xá (Vaishya) chưởng quản về các ngành nghề, thương gia, điền chủ, các nghề thủ công. Giai cấp thứ tư là Thủ-đà-la (Shudra) gồm các người làm việc nặng nhọc như nhân công, thợ thuyền, đầy tớ.

Dưới đáy xã hội là các người “ngoài giai cấp” thường được gọi là các người “paria” hay “không thể đụng tới”, hạng tiện dân, nô lệ Chiên-đà-la (Caṇḍāla) và những người này đã vi phạm luật lệ và mất các quyền xã hộitôn giáo. Họ chuyên làm vệ sinh, những việc dơ bẩn nhất và chôn xác người chết. Ngày nay những người “paria” này tự xem là “dalit”, những người bị áp bức.

Hệ thống phân chia giai cấp trên đây dựa vào kinh Rig Veda. Theo đó, giai cấp Bà-la-môn cao nhất, bắt nguồn từ đầu của thần tạo dựng Brahma. Giai cấp Sát-đế-lợi và Phệ-xá bắt nguồn từ hai cánh tay và hai chân của thần. Giai cấp Thủ-đà-la thấp nhất, bắt nguồn từ hai chân của thần Brahma.

Theo Vinayak Jadav, chuyên gia nghiên cứu về các vấn đề giai cấp trong xã hội Ấn: “Các biểu hiện bên ngoài của hệ thống phân chia giai cấp tại Ấn Độ ngày nay không còn hiển nhiên như trước. Người ta không còn tuân giữ các luật lệ cứng nhắc của việc kỳ thị. Tuy nhiên, nó vẫn tồn tại một cách tinh vi trong các thói quen kỳ thị giữa các giai tầng xã hội.

Chẳng hạn, lãnh đạo chính quyền dành ưu tiên cho giai cấp cao, trong khi những giai cấp thấp ít có cơ hội tiến thân. Trong học vấn cũng vậy, có người giai cấp thấp đỗ đạt cao nhưng khó ra lãnh đạo, ngoại trừ những nhân vật xuất chúng. Không có ai trong giai cấp cao lập gia đình với một người thuộc giai cấp thấp hơn, vì họ sợ những hệ lụy liên quan đến bản thân.”1

Theo một số nhà lãnh đạo cấp tiến thì không có xã hội nào có thể dựa trên một ý thức hệ thù hận và kỳ thị mà bình yên được. Như Mahatma Gandhi đã nói: “Các giai cấp xã hội là một vết nhơ nhục nhã trên trán của Ấn Độ”.2

Trong bốn giai cấp thì Thủ-đà-la có vị trí thấp nhất. Tuy nhiên, tình trạng của họ vẫn còn tốt hơn những người “hạ tiện”, vì họ còn được coi là con người, trong khi tình trạng của những người “ngoài giai cấp” thấp hơn cả con người, thậm chí như súc vật. Và sự phân chia giai cấp này mang tính cha truyền con nối, từ thế hệ trước truyền cho thế hệ sau, suốt đời suốt kiếp không thay đổi được.

Lập luận chính của Đức Phật chống lại sự phân chia giai cấp này, đó là không có con người nào có thể cao thượng hay thấp hèn trong xã hội chỉ vì lý do mình sinh ra. Địa vị xã hội của con người phụ thuộc vào chính hành vi của họ. Điều này có nghĩa rằng, dựa theo thái độhành vi (nghiệp) của một người sẽ làm cho họ cao thượng hay thấp hèn, chứ không phải vì giai cấp.

Đức Phật luôn nhấn mạnh vai trò của cá nhân con ngườitrung tâm của cải cách xã hội. Xã hội là sự kết hợp của các cá nhân; do đó, cải cách cá nhân có nghĩa là cải cách xã hội. Mọi người đều có khả năng thành Phật. Như những con sông về với biển đều phải bỏ tuổi, bỏ tên. Cũng vậy, trong Giáo hội của Như Laibốn giai cấp Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, Phệ-xá, Thủ-đà-la.

Khi họ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, họ cũng từ bỏ giai cấp, bỏ họ, bỏ tên, bỏ danh vọng, bỏ địa vị, bỏ sự nghiệp, bỏ quê hương, chủng tộc để chỉ còn là những Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, là những Sa-môn Thích tử! Đức Phật chỉ dựa vào tiêu chí về tu hành, đức hạnhtrí tuệ, chứ không phụ thuộc vào dòng giống nơi mình sinh ra. Mọi người đều bình đẳng vì mỗi người đều có thể hoàn thành những mục tiêu cao cả.

Đức Phật đã bác bỏ quan điểm của Bà-la-môn, rằng “Vị trí xã hội của con người phụ thuộc vào sự ra đời của họ”, Ngài dạy:

“Không phải do sinh ra, người ta trở thành thấp/ Không phải do sinh ra, người ta trở thành cao quý/ Nhưng bằng hành động, một người trở thành thấp/ Và bằng hành động, người ta trở thành cao quý”.

Đức Phật chỉ rõ, hành động (nghiệp) của người đó mới quan trọng, không phải là hoàn cảnh ra đời của họ. Một điểm quan trọng khác cần làm rõ là liệu một người sinh ra trong một giai cấp thấp có phải vì nghiệp xấu trước đây của họ? Khả năng này được thừa nhận trong Phật giáo, như được hiểu trong học thuyết về nghiệp.

Đức Phật không bao giờ chấp nhận sự cao quý hay thấp kém dựa trên nơi chốn hay đẳng cấp mà họ sinh ra. Học thuyết luân hồi tái sinh của Phật giáo giải thích cho chúng ta hiểu, kết quả mình có trong hiện tại một phần do nghiệp quá khứ. Tuy nhiên, nghiệp theo Phật giáo không phải định nghiệp mà là bất định nghiệp. Do đó, con người có thể chuyển đổi hoàn cảnh của mình do sự nỗ lực của cá nhân có thể thay đổi hoàn cảnh hiện tại.

Đạo đức và sự phát triển tâm linh không phải là một đặc quyền của cá nhân, giai cấp. Đức Phật dạy rằng, tất cả mọi người không phân biệt đẳng cấp đều bình đẳng trước pháp luật về đạo đức. Người có thân phận thấp kém sau khi xuất gia trong Giáo pháp của Đức Phật trở thành thánh thiện đều được mọi người tôn kính. Quả vị giác ngộ dành cho tất cả mọi người thuộc mọi chủng tánh. Nếu ai nỗ lực đúng cách thì đạt được quả vị cao quý ấy.

Trong rất nhiều bản kinh, Đức Phật đã lên tiếng chống lại hệ thống đẳng cấp. Kinh Ambattha (thuộc Trường bộ), kinh Assalayana (thuộc Trung bộ)…, Đức Phật đều tranh luận mạnh mẽ, thẳng thừng phê phán, quyết liệt chống lại quan điểm bảo thủ giai cấp của Bà-la-môn.

Bài kinh Assalāyana (Trung bộ), cho thấy sự tranh luận quyết liệt này. Thanh niên Assalāyana bạch Thế Tôn: Thưa Tôn giả Gotama, các vị Bà-la-môn nói như sau: “Chỉ có Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt; chỉ có Bà-la-môn là màu da trắng, giai cấp khác là màu da đen; chỉ có Bà-la-môn là thanh tịnh, các giai cấp phi Bà-la-môn không được như vậy. Chỉ có Bà-la-môn mới là con chính thống Phạm thiên, sanh từ miệng Phạm thiên, do Phạm thiên sanh ra, là con cháu thừa tự Phạm thiên”3.

Đức Phật lần lượt đưa ra những luận lý của mình để giải thích, chứng minh rằng lời tuyên bố đó là vô căn cứ. Ngài nói rằng, sự thanh tịnh là kết quả của việc thực hành giới hạnh, không phải do sinh ra mà có. Đức Phật thậm chí tước bỏ tính di truyền của danh từ ‘Bà-la-môn’ và đem danh từ đó trở về ý nghĩa ban đầu của một người thánh thiện, xác định một người Bà-la-môn thực sự chính là vị A-la-hán. “Không biết chỗ sở thủ/ Thiên, Nhân, Càn-thát-bà/ Lậu hoặc được đoạn trừ/ Bậc Ứng cúng, La-hán/ Kẻ ấy Ta mới gọi/ Chánh danh Bà-la-môn”4

Ngay từ ban đầu, Phật giáo không chấp nhận hệ thống đẳng cấp, và cũng không có sự thay đổi quan điểm hay thỏa hiệp với vấn đề này trong suốt quá trình phát triển về sau. Theo Phật giáo, giai cấp chỉ là một vấn đề quy ước của con người. Đức Phật dạy: “Ai sống theo thiện pháp thì đó là người đáng kính, chứ không phải vì người đó thuộc dòng dõi, giai cấp nào cả”.

Một người xuất thân từ dòng dõi thấp kém vào trong giáo pháp của Như Lai, vẫn có thể chứng được quả vị A-la-hán. “Không có đẳng cấp khi nước mắt cùng mặn, khi máu cùng đỏ”. Hãy đánh giá một người qua hạnh nghiệp của người đó, chứ đừng đánh giá người đó bởi dòng dõi họ sinh ra. Những ai đã xuất gia trong giáo pháp của Như Lai thì phải cạo bỏ râu tóc như là sự từ bỏ đẳng cấp riêng để tìm về cái chung, cũng như nước của mọi con sông đều trở thành vị mặn khi cùng đổ ra biển lớn… Hãy nên lấy nỗi khổ đau của người làm nỗi đau của chính mình mới vỡ lẽ nhiều bài học quý giá trong cuộc sống.

Như vậy, một người khi tham gia vào cộng đồng Phật giáo thì tất cả những gì liên quan đến đẳng cấp đều bị loại trừ. Tất cả đều bình đẳng trong giáo pháp, và tất cả đều có khả năng đạt được giác ngộ, bất kể màu da hay nguồn gốc gia đình của họ là gì.

Tóm lại, sự phân biệt giai cấp trong xã hội loài ngườithể không bao giờ chấm dứt, nhưng tiếng nói chân chính của Phật giáo bảo vệ những người thấp yếu cũng như cho tất cả mọi người là rất đáng trân trọng. Tư tưởng Phật giáo góp phần xóa bỏ kỳ thị, xua tan thù hận, hàn gắn tang thương, thay đổi nhận thức và có thái độ sống tích cực, mang lại sự an lạc, hạnh phúc cho nhân loại.

-------------------------

(1) https://minhtrietviet.net/te-nan-phan-chia-giai-cap-trong-xa-hoi-an-do/

(2)Tâm thức phân chia giai cấp tại Ấn Độ” http://vi.radiovaticana.va/storico/2010/11/16/.

(3) Đại tạng kinh Việt Nam Nam truyền, Kinh Trung bộ, tập 2, NXB Tôn Giáo, 2016, p. 185.

(4) Sđd, p.248.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5192)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4182)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3246)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6240)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5208)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4549)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6108)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 5998)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3785)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 5917)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4558)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4706)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3316)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6198)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 4830)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3478)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3407)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5557)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4146)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 5924)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5134)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3598)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3675)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3649)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3470)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5260)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 3888)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4232)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5753)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3079)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3015)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3760)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4777)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3501)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 2979)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4499)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4629)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3378)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 3929)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4665)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3472)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3537)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5076)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4045)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3212)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 2938)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 2975)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3045)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3038)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3406)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 3940)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
(Xem: 5035)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2605)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6053)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 2980)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3028)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3223)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3170)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3227)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4481)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant