Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tự Tánh Khởi Dụng

02 Tháng Ba 202317:35(Xem: 2615)
Tự Tánh Khởi Dụng

Tự Tánh Khởi Dụng

(Lục Tổ Huệ Năng)
Nguyễn Thế Đăng

 
Chánh Kiến – Trái Tim Của Đạo Bụt

Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém. Con người chính là ý nghĩ của nó, vì trước khi hành động phải có ý nghĩ.

Ý nghĩ, chữ Hán, là Niệm. Tất cả các tông phái Phật giáo đều có những phương pháp để đối trị với những ý nghĩ, những niệm xấu kéo con người xuống, và nuôi dưỡng những ý nghĩ tốt để làm con người tiến bộ. Nhưng những đối trị, “nhổ gốc”, chuyển hóa các ý nghĩ, muốn thật sự hiệu nghiệm, phải làm việc ở tận nguồn gốc, nền tảng của các ý nghĩ, các niệm, tức là làm việc ở tâm, ở bản tâm. Các tông phái cao cấp thì làm việc trực tiếp ở bản tâm, như Thiền, Đại Toàn Thiện (Dzogchen), Đại Ấn (Mahamudra)...

 

Để chỉ bản tâm, bản tánh của tâm, Lục Tổ Huệ Năng dùng nhiều nhất là chữ “Tự tánh” - Tự tánhtánh Không, và tánh Không này là bản tánh của con người và của tất cả các sự vật, tất cả các pháp.

Sao gọi là Ma ha? Ma ha là lớn, tâm lượng rộng lớn như hư không, không có biên bờ, cũng không vuông tròn lớn nhỏ, chẳng phải xanh vàng đỏ trắng, cũng không giận, vui, phải trái, lành dữ, không đầu không cuối. Các cõi Phật đồng như hư không. Diệu tánh của người đời vốn Không, không có pháp nào có thể đắc. Tự tánh Chân Không cũng lại như vậy”.

(Phẩm Trí Huệ)

Tự tánh chân không này cũng gọi là “Phật tánh”, “tự tánh Bát nhã (Trí huệ)”, “Trí Bát nhã giác ngộ”. “Tự tánh Bát nhã” nghĩa là tự tánh chính là Trí huệ.

Các thiện tri thức! Trí Bát nhã giác ngộ, người đời đều vốn tự có, chỉ duyên theo tâm mê nên chẳng thể tự ngộ. Phải nhờ đại thiện tri thức chỉ dẫn cho thì được thấy tánh. Hãy biết, người ngu kẻ trí Phật tánh vốn không sai khác, chỉ do mê ngộ chẳng đồng mà có ngu có trí”.

(Phẩm Trí Huệ)

Tự tánh hay bản tánh của tâm là tâm Phật, là Pháp thân.

Hãy đến đây, các thiện tri thức! Sự này phải từ trong tự tánh khởi ra. Trong tất cả thời gian, niệm niệm tự tịnh tâm mình, tự tu tự hành, thấy Pháp thân chính mình, thấy tâm Phật của mình, tự độ tự giới, mới chẳng uổng công đến đây”.

(Phẩm Sám Hối)

Tự tánh đầy đủ cả ba thân, Pháp thân, Báo thân, và Hóa thân.

Thiện tri thức! Sắc thân là nhà trọ, không thể nói quy hướng vào đó được. Phật ba thân ở trong tự tánh mình, người đời đều có. Chỉ vì tự tâm mê chẳng thấy tánh ở trong, mà lại tìm ba thân Như Lai ở ngoài, thành ra chẳng thấy trong thân mình có Phật ba thân. Các ông nghe giảng, khiến các ông trong thân mình thấy tự tánh mình có Phật ba thân. Phật ba thân ấy từ tự tánh mình sanh, chẳng do ở ngoài mà được”.

(Phẩm Sám Hối)

Tự tánh chính là Chân Như:

Niệm là niệm bản tánh Chân Như, Chân Như là thể của niệm, niệm là dụng của Chân Như.

Tự tánh Chân Như khởi niệm, chẳng phải mắt tai mũi lưỡi có thể niệm được. Chân Như có tánh do đó mới có niệm khởi. Nếu Chân Như không có thì mắt tai sắc thanh liền tiêu hoại ngay

(Phẩm Định Huệ).

tự tánhtánh Không, là Phật tánh, là tâm Phật, là Pháp thân, là Chân Như nên tự tánh vốn thanh tịnh:

Sao gọi là Thanh tịnh Pháp thân Phật? Người đời tánh vốn thanh tịnh. Muôn pháp đều tự tánh sanh”.

(Phẩm Sám Hối)

Kinh Bồ tát giới nói: tự tánh mình bổn nguyên thanh tịnh. Thiện tri thức! Trong niệm niệm, tự thấy bản tánh thanh tịnh, tự tu tự hành, tự thành Phật đạo”.

(Phẩm Ngồi Thiền).

Tự tánh Chân Như này “người đời đều vốn tự có, người đời tánh vốn thanh tịnh”, thế thì tại sao lại có sanh tử, khổ đau? Bởi vì sử dụng sai lầm các niệm, các ý tưởng, khiến tạo ra các phiền não, trần lao, che lấp bản tánh thanh tịnh.

Pháp môn ngồi thiền này, nguyên chẳng dựa bám nơi tâm, cũng chẳng dựa bám nơi tịnh, mà cũng chẳng phải là chẳng động. Nếu nói dựa nơi tâm thì tâm nguyên là vọng; biết tâm như huyễn nên không có chỗ dựa bám. Nếu nói dựa vào tịnh thì tánh người vốn tịnh. Chỉ bởi vọng niệm che lấp bản tánh Chân Như. Chỉ khôngvọng tưởng thì tánh tự thanh tịnh. Nếu khởi tâm dựa bám vào tịnh thì lại sanh ra cái vọng về sự thanh tịnh. Vọng không có xứ sở, thế mà dựa bám thì đó là vọng. Tịnh khônghình tướng, thế mà lập ra tướng tịnh, gọi đó là công phu. Thấy hiểu như thế làm che chướng bản tánh mình, lại bị cái tịnh trói buộc”.

Thực hành là thấy được tự tánh và an trụ trong tự tánh, chẳng bị ngu mê, kiêu căng, ghen ghét làm nhiễm ô.

Các đệ tử, từ niệm trước, niệm nay đến niệm sau, niệm niệm chẳng bị ngu mê nhiễm. Bao nhiêu nghiệp xấu ngu mê các tội đã khởi từ trước thảy đều sám hối, nguyện nhất thời tiêu diệt, vĩnh viễn chẳng khởi lại.

Các đệ tử, từ niệm trước, niệm nay đến niệm sau, niệm niệm chẳng bị kiêu căng dối lừa nhiễm. Bao nhiêu nghiệp xấu kiêu căng dối lừa các tội đã khởi từ trước thảy đều sám hối, nguyện nhất thời tiêu diệt, vĩnh viễn chẳng khởi lại.

Các đệ tử, từ niệm trước, niệm nay đến niệm sau, niệm niệm chẳng bị ghen ghét nhiễm. Bao nhiêu nghiệp xấu ghen ghét các tội đã khởi từ trước thảy đều sám hối, nguyện nhất thời tiêu diệt, vĩnh viễn chẳng khởi lại”.

(Phẩm Sám Hối)

Ngu mê là nghĩ tưởng phân biệt chủ thể - khách thể, ta - người, ta - thế giới, đây – kia…, từ đó sanh ra các phiền não kiêu căng, dối lừa, ghen ghét. Tất cả những cái đó làm ô nhiễm, che lấp tự tánh Chân Như. Sám hốichừa bỏ lỗi cũ, không tạo ra lỗi mới, và an trụ trong tự tánh vốn thanh tịnh, chưa từng bị nhiễm ô.

Chữ “niệm niệm” nói lên thiền định là một dòng tương tục thanh tịnh, và chính dòng tương tục thanh tịnh không bị ô nhiễm này thể nghiệm được “tự tánh mình bổn nguyên thanh tịnh”.

 

Con người vốn là và vốn ở trong tự tánh Pháp thân thanh tịnh, chỉ vì khởi sanh và sử dụng các niệm, các ý nghĩ sai lầm, xấu ác mà thành các nẻo đường xấu ác và khởi sanh sử dụng các niệm thiện thì sanh vào các nẻo đường tốt lành.

Sao gọi là thanh tịnh pháp thân Phật? Người đời tánh vốn thanh tịnh. Muôn pháp đều từ tự tánh sanh: nghĩ lường tất cả sự ác bèn sanh hạnh ác, nghĩ lường các tất cả sự thiện bèn sanh hạnh thiện. Như vậy các pháp ở trong tự tánh mình, như trời thường trong, mặt trời mặt trăng thường sáng, nhưng vì mây bay che lấp nên trên sáng dưới tối. Bỗng gặp gió thổi mây tan, trên dưới đều sáng, muôn hình tượng đều hiện. Tâm thức người đời thường phù du, như mây trên trời kia.

Thiện tri thức! Trí như mặt trời, huệ như mặt trăng. Trí huệ thường sáng, do vì ở ngoài bám cảnh nên bị đám mây vọng niệm che khuất tự tánh mà thấy chẳng sáng tỏ.

Nếu gặp thiện tri thức, nghe được pháp chân chánh, tự trừ mê vọng thì trong ngoài sáng suốt, trong tự tánh mình muôn pháp đều hiện. Người thấy tánh cũng giống như vậy. Đây gọi là Thanh tịnh Pháp thân Phật”.

(Phẩm Sám Hối)

Tự tánh Pháp thân thanh tịnh, ai ai đều có và đều sống trong ấy. Nhưng do vì khởi vọng niệm phân biệt, nghĩ lường đủ thứ thiện ác mà thành ra cõi đời thiện ác như những đám mây che khuất tự tánh Pháp thân.

Tự tánh Pháp thân thanh tịnh là nền tảng mà người nào cũng có và đang sống trong đó. Nếu khởi vọng tưởng rồi theo đó thì đi vào sanh tử, còn niệm niệmthường hành trí huệ, không phân biệt chủ - khách, ta - người, tâm - cảnh rồi sanh ra đủ thứ phiền não thì đây chính là chân tánh Pháp thân, “trong tự tánh mình muôn pháp đều hiện”.

Thiện tri thức! Người mê chỉ miệng niệm, đang lúc niệm có vọng, có trái (phi: chẳng phải). Còn niệm niệmthường hành trí huệ, đó gọi là chân tánh. Ngộ được pháp này tức là pháp Bát nhã, tu được hạnh này tức là hạnh Bát nhã. Chẳng tu là phàm, một niệm tu hành thì tự thân đồng như Phật.

Thiện tri thức! Phàm phu tức là Phật, phiền não tức là Bồ đề. Niệm trước mê tức là phàm phu, niệm sau ngộ tức là Phật. Niệm trước bám cảnh tức là phiền não, niệm sau lìa cảnh tức là Bồ đề”.

(Phẩm Trí Huệ)

Con người luôn luôn là chân tánh, ở trong trong chân tánh, chỉ vì một niệm mê mờ, nghịch với sự “thường hành trí huệ” mà lọt ra ngoài, lạc lỏng trong sanh tử do mình tự tạo. Chính sự quyết định của một niệm này mà sanh tử hoặc Niết bàn tức thời hiện diện. Đây là một trong những lý doLục Tổ gọi pháp của ngài là Đốn giáo (Phẩm Hành Do, Phẩm Trí Huệ). Đốn giáo là thấy tự tánh vốn sẵn có nơi mình và y trên nền tảng tự tánh ấy mà tu, mà hành.

 

Khi tất cả các niệm, các ý tưởng, dù tốt dù xấu, đều sanh khởi từ tự tánh Chân Không, tự tánh Chân Như thì niệm hay ý tưởngbản chất là thế nào? Các niệm hay các ý tưởng đều sanh khởihiện hữu rồi tan biến trong tự tánh Chân Không, tự tánh Chân Như nên bản tánh của tất cả các niệm đều là tự tánh Chân Không, tự tánh Chân Như. Thế nên với người đã chứng ngộ được tự tánh Chân Không, tự tánh Chân Như thì các niệm là sự biểu lộ của tánh Không - tánh Như, nên các niệm vốn tự giải thoát lấy chính chúng.

Sao gọi là Ngàn Trăm Ức Hóa thân? Nếu chẳng nghĩ muôn pháp thì tánh vốn như hư không. Một niệm nghĩ lường, gọi là biến hóa. Nghĩ lường việc ác thì hóa làm địa ngục, nghĩ lường việc tốt thì hóa làm thiên đường, độc hại hóa làm rồng rắn, từ bi hóa làm Bồ tát, trí huệ hóa làm cõi trên, ngu si hóa làm phương dưới. Tánh mình biến hóa rất nhiều, người mê chẳng thể tỉnh giác, niệm niệm khởi ác, thường hành đường ác. Xoay về một niệm thiện thì trí huệ liền sanh, ấy gọi là Tự tánh Hóa thân Phật”.

(Phẩm Sám Hối)

Tất cả các niệm là Hóa thân của Pháp thân tự tánh Chân Không, tự tánh Chân Như. Cho nên “tánh mình biến hóa rất nhiều”, với người không tỉnh giác thì thành ra ba cõi sáu đường. Với người đã thấu đạt tự tánh Chân Không, tự tánh Chân Như thì tất cả các niệm biến hóa đều là Chân Không, Chân Như. Lục Tổ không nói Hóa thân, mà nói “Tự tánh Hóa thân Phật”, nghĩa là mọi hóa thân, mọi biến hóa đều từ Tự tánh Phật, nên mọi biến hóa đều là của Tự tánh Phật, “thanh tịnh đến vô dư” (bài kệ trong Phẩm Trí Huệ).

Khi ấy “niệm niệm tròn sáng, tự thấy tánh bản tánh. Thiện ác tuy khác nhau, nhưng bản tánh không hai, tánh không hai gọi là thật tánh. Trong thật tánh chẳng nhiễm thiện ác, đây gọi là Viên mãn Báo thân Phật. Thẳng đến Giác ngộ vô thượng, niệm niệm tự thấy, chẳng mất bổn niệm, gọi là Báo thân” (Phẩm Sám Hối).

Khi niệm niệm tròn sáng thì “trong ngoài sáng suốt, muôn pháp đều hiện. Người thấy tánh cũng giống như vậy” (phần nói về Thanh tịnh Pháp thân Phật).

Khi niệm niệm tròn sáng, muôn pháp đều hiện, thì “tánh, tướng như như”, nghĩa là tánh, tướng là Chân Như.

Khi tâm ông như hư không mà chẳng bám vào cái thấy không, ứng dụng vô ngại, động tịnh đều vô tâm, tình phàm thánh dứt, năng sở đều hết, tánh tướng như như, thì không lúc nào chẳng định” (Phẩm Cơ Duyên).

 

Trong Pháp Bảo Đàn Kinh, chữ “dụng” được dùng nhiều, như câu trên “ứng dụng vô ngại”. Vậy thì dụng là gì? “Chân Như là thể của niệm, niệm là dụng của Chân Như”. Các ý nghĩ, ý tưởng đều là dụng của Chân Như, khi biết rằng chúng đều phát sanh, hiển xuất từ tự tánh Chân Như.

Lục Tổ dùng nhiều thành ngữ “chân tánh tự dụng” (Phẩm Trí Huệ), “tự tánh Chân Như khởi niệm” (Phẩm Định Huệ), “tự tánh động dụng” (Phẩm Phó Chúc), “tự tánh khởi dụng” (Phẩm Phó Chúc)…

Phải biết tất cả muôn pháp đều từ tự tánh khởi dụng, ấy là giới định huệ chân thật” (Phẩm Đốn Tiệm).

Tự tánh bao gồm vạn pháp, gọi là Hàm tàng thức. Nếu khởi suy nghĩ tức là chuyển thức, sanh ra sáu thức, ra sáu cửa, thấy sáu trần. Mười tám giới như vậy đều từ tự tánh khởi dụng…Tự tánh động dụng, ngoài thì giao tiếp nói năng, trong thì ở nơi không mà lìa không” (Phẩm Phó Chúc).

Tất cả các pháp, tất cả các niệm đều là sự khởi dụng của tự tánh, chúng chính là sự biểu lộ của tự tánh Chân Không, tự tánh Chân Như, tự tánh Trí huệ.

Khi được Ngũ Tổ giảng Kinh Kim Cương ngài Huệ Năng đại ngộ, rồi nói bài kệ trước mặt Tổ:

Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh,

Nào ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt,

Nào ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ,

Nào ngờ tự tánh vốn không động lay,

Nào ngờ tự tánh sanh ra muôn pháp.

“Nào ngờ tự tánh sanh ra muôn pháp” chính là “tự tánh khởi dụng”.

Pháp môn đây từ một Bát nhã sanh ra tám vạn bốn ngàn trí huệ. Tại sao thế? Vì người đời có tám vạn bốn ngàn trần lao. Nếu khôngtrần lao thì trí huệ thường hiển hiện, chẳng lìa tự tánh”.

(Phẩm Trí Huệ)

Như thế, tất cả các pháp, các niệm từ tự tánh khởi dụng sanh ra đều là trí huệ. Không còn bóng dáng trần lao phiền não đâu cả.

Chân Không khởi dụng thành Chân Không, Chân Như khởi dụng thành Chân Như, Pháp thân khởi dụng thành Pháp thân, Trí huệ khởi dụng thành Trí huệ, và sự khởi dụng ấy là vô số, không thể tính đếm, nên Lục Tổ nói là “diệu dụng như số cát sông Hằng” (Lục Tổ nói cho Tiết Giản, Phẩm Hộ Pháp).

 

Tóm lại nhờ tự tánh khởi dụng mà sanh tử chuyển thành Niết bàn, phiền não chuyển thành Bồ đề (Giác ngộ) và vũ trụ chúng sanh chuyển thành pháp giới của chư Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4533)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7266)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2940)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12161)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3973)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3780)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4169)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3657)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5011)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6623)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3972)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4087)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5307)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3770)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4501)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3531)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3908)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4371)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5371)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3827)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3913)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3847)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4792)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4493)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4225)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3806)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4608)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4166)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6060)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4572)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4926)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4135)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4790)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5636)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3594)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4006)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4569)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5248)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3121)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4724)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4512)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4257)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4714)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4469)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4580)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7190)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5175)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4978)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4565)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5584)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5241)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4136)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 5981)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4695)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4849)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5455)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5591)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5784)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 4971)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4360)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant