Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tìm Hiểu Hạnh Nguyện Bồ Tát Qua Góc Nhìn Kinh Lăng Già

12 Tháng Tư 202318:32(Xem: 1304)
Tìm Hiểu Hạnh Nguyện Bồ Tát Qua Góc Nhìn Kinh Lăng Già
Tìm Hiểu Hạnh Nguyện Bồ Tát Qua Góc Nhìn Kinh Lăng Già 

Thích Nữ
Thanh Hảo

hoa sen 1


Tóm tắt: Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa. Vị Bồ tát theo Kinh Lăng Già có các hành tác rất cao thượng, tự giácgiác tha, làm lợi lạc cho nhân sinh. Từ đó cho thấy, Phật giáo là một tôn giáo rất cao thâm, vừa mang lại sự giác ngộ cho người tu tập, vừa đem lại lợi ích cho nhân quần xã hội.  

KHÁI NIỆM VỀ BỒ TÁT

Bồ tát là những vị mang hạnh nguyện cao cả, dấn thân đi vào cuộc đời để cứu độ chúng sanh, làm hành trang cho pháp tu và hạnh nguyện của mình. Các Ngài lấy chúng sinh hữu tình làm bạn đồng hành, trợ duyên cho Bồ tát tu tập đạt đến quả vị giác ngộ tối thượng. Khái niệm về Bồ tát (Pāli: Bodhisatta, Sankrit: Bodhisattva, Trung Hoa dịch là Bồ đề Tát đỏa) tương đối rộng. 

Theo sự hiểu thông thường, thuật ngữ Bodhisatta có hai phần: Bodhi và satta hay sattva. Có rất ít ý kiến bất đồng của các học giả về từ Bodhi với ý nghĩa là “sự chứng ngộ hay giác ngộ”, nhưng lại có nhiều tranh cãi về ý nghĩa và sự ứng dụng của “satta” hay “sattva” trong phạm trù liên hệ. Bộ Bách Khoa Tôn Giáo cho rằng: “Theo từ nguyên học, Bodhisattva là thuật ngữ ghép thành từ chữ Bodhi, với ý nghĩa là “sự giác ngộ hay chứng ngộ” (của một vị Phật), và sattva có nghĩa là “chúng sinh”. 

Như vậy, Bodhisattva đề cập đến hoặc một người đang mưu cầu giác ngộ (Bodhi) hoặc “một chúng sinh giác ngộ” (Bodhi being), nghĩa là chúng sinh ấy chắc chắn sẽ chứng đắc quả vị Phật. Bộ Bách Khoa Phật Giáo lại có định nghĩa: “Bodhisattva (Pāli: Bodhisatta) là một chúng sinh thiết tha đối với sự giác ngộ (Bodhi)”. Theo từ nguyên, Bodhi gốc từ chữ Budh, nghĩa là “sự tỉnh ngộ” hay “giác ngộ”. Còn “sattva”, bắt nguồn từ saint, hiện tại phân từ của nó mang ý nghĩa là “sự hiện hữu” hay “sự tồn tại” (to be or being); hay theo nghĩa đen, “sattva là một chúng sinh”. Do vậy, thuật ngữ này mang ý nghĩa là “một chúng sinhbản chất là giác ngộ”, hoặc “một vị Phật tương lai”. Cũng có sự gợi ý rằng thuật ngữ satta của Pāli có thể bắt nguồn từ Bodhi và satta (Sanskrit Sakta có gốc từ Sanj), nghĩa là “một người gắn bó hay khao khát để đạt đến sự giác ngộ”. 

Trong một nghiên cứu về giáo lý Bồ tát, giáo sư Har Dayal cho rằng sattva (giống đực) có thể mang ý nghĩachúng sinh hay hữu tình (Skt. Dicy. M. W). Từ Pāli “satta” có thể có nghĩa là chúng sinh, hay sinh vật, hữu tình, hay con người. Hầu hết các học giả chấp nhận sự giải thích này. 

Như vậy, từ Bodhisatta trong kinh điển Pāli dường như có nghĩa là “một chúng sinh giác ngộ”. Tuy thế, satta ở đây không hàm nghĩa là một hữu tình bình thường, và hầu như từ ngữ ấy liên hệ chắc chắn với từ của Vedic “Krieger”, có nghĩa là “một người mạnh mẽ hay dũng cảm, tức anh hùng hay chiến sĩ”. Như vậy, Bồ tát có thể dịch là “giác hữu tình” hay “hữu tình giác”, nghĩa là một chúng sinh hữu tình trong quá trình tu tập theo giáo lýNhư Lai đã giảng dạy đạt được giác ngộ, sau đó đem những điều đã giác ngộ đi giáo hóa, chỉ dạy cho những người khác cũng được giác ngộ như mình. Thể hiện tinh thần tự giác giác tha, tự độ độ tha

Có thể nói, một trong những học thuyết nổi bật của Phật giáo Đại thừahọc thuyết Bồ tát, mặc dù khái niệm về thuật ngữ này đã xuất hiện trước đó trong Phật giáo Theravāda nhưng với việc xây dựng hình tượng Bồ tát lý tưởng đi cùng với những phương pháp tu tậphạnh nguyện độ sanh, Phật giáo Đại thừa Phật giáo thể hiện tinh thần nhập thế rất tích cực. Vì thế, hầu hết các bản kinh Đại thừa đều đề cập đến hình ảnh của các vị Bồ tát và những đặc điểm của Ngài, nhất là Kinh Lăng Già

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA VỊ BỒ TÁT

Kinh điển Đại thừa vẽ nên một hình tượng vị Bồ tát đi vào đời hoằng hóa với nhiều phương tiện khác nhau. Nếu như trong Kinh Hoa Nghiêm, Bồ tát đóng vai trò như một ngọn đèn soi sáng chúng sanh; trong Kinh Pháp Hoa (phẩm Phổ Môn), Bồ tát có thể hóa hiện nhiều thân hình để hóa độ chúng sanh, là cho họ được lợi ích an vui; thì trong Kinh Lăng Già, Bồ tát vì muốn cứu độ tất cả chúng sanh đạt đến Niết bàn nên phát nguyện ở lại thế gian nhiều đau khổ này để làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Đời sống, hành tác cũng như những đặc điểm của một vị Bồ tát được Kinh Lăng Già đề cập cụ thể qua các phần như: Sự tự tu và gia trì lực (Adhishthana); Sự thanh tịnh (Visuddhi) tâm; Ý sinh thân (Manomayakāya); Vị Bồ tátđời sống xã hội; Vị Bồ tát không bao giờ nhập Niết-bàn; Các bổn nguyện của vị Bồ tát và các công dụng hạnh của Ngài; Mười bổn nguyện của Bồ tát Phổ Hiền (Samantabhadra). 

Thứ nhất, sự tự tu và gia trì lực: Đây là hai điều thiết yếu quan trọng mà một vị Bồ tát cần phải có. Theo Kinh Lăng Già, sự trang bị về luận lý và tâm lý phải được gia tăng lên nữa bằng sự tu tập thực tiễn mà không có sự tu tập này thì vị Bồ tát không thể khác gì hơn một vị triết gia lý niệm. Vị Bồ tát phải tìm một chỗ yên lặng và đơn độc mà tự tu tập nhờ vào trí tuệ của mình. Một điểm khác biệt giữa Phật giáo Bộ pháiPhật giáo Đại thừa là: Nếu Phật giáo bộ phái chủ trương chỉ có tự lực không cần phụ trợ bên ngoài, thì Đại thừa cho rằng có tha lực. Lăng Già gọi tha lực ấy là “Adhiasthāna” (gia trì lực). 

Thứ hai, sự thanh tịnh tâm: Để thành tựu cứu cánh giác ngộ tuyệt đối, vị Bồ tát phải thanh lọc tâm ý của mình cũng như tất cả chúng sanh với sự hộ trì bằng gia trì lực của tất cả chư Phật. Vị nào thực sự là hiện thân của hạnh nguyện làm lợi ích người khác thì bao giờ cũng nghiêng về việc thức tỉnh họ chứng ngộ. Kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa và các kinh khác có đề cập, sự phát khởi ý tưởng chứng ngộ luôn được nói đến như là bước đầu tiên tiến đến sự đạt đến chân ý của Như Lai tính. Vì thế, Bồ tát Mahāmati đã nêu lên một câu hỏi về sự thanh tịnh: “Sự tẩy sạch mà Đức Phật thực hiện là ngay liền hay dần dần, sự tẩy sạch cho tất cả các chúng sinh khỏi những lậu hoặc của tâm mà theo đó họ chấp vào cái thực tính của một thế giới đối tượng?”.

Thứ ba, ý sinh thân, chúng ta không thấy có sự xác định rõ ràng nào về học thuyết tam thân trong Kinh Lăng Già nhưng tất cả các ý niệm tạo thành như có thể nhận ra được như sau đây: Đức Phật Pháp tính, Phật Sở Lưu và Phật Biến Hóa rõ ràngtương ứng với tam thân sau này là pháp thân, ứng thânhóa thân. Ý sinh thân (Manomayakāya) là năng lực di chuyển khắp nơi nhanh chóng không bị trở ngại, theo như ý muốn. Kinh Lăng Già liệt kê ba loại ý sinh thân: 1. Cái ý thân đạt được trong hạnh phúc của Tam-ma-địa; 2. Cái ý thân sinh ra từ cái biết về sự tự tính của Pháp; 3. Cái ý thân mà các hành động của nó có thể toan tính được, được sinh ra trong hàng Thánh giả. Trong ba loại này, loại thứ hai quan trọng nhất, và từ khi Thân được nêu ra mà không có các định tính thì thường được hiểu là cái thân thuộc loại thứ hai này. 

Thứ tư, vị Bồ tátđời sống xã hội, chủ đề trung tâm của Kinh Lăng Già được giải thích là sự đạt tới trí tuệ thâm nhập vào tâm thức thâm kín nhất. Phật giáotôn giáo có mặt thực hànhxã hội, nếu có mặt này mà không có mặt kia thì sẽ mất đi lý do hiện hữu của đạo Phật. Vì vậy, Kinh Lăng Già cũng chuẩn bị cho Bồ tát sứ mạng của bản thân như là một thành viên trong cộng đồng. Một vị Bồ tát phải phát nguyện rộng độ tất cả chúng sanh, làm lợi ích cho hết thảy các loài hữu tình, xem họ như người thân, như cha mẹ, vợ con, anh em hay như chính bản thân mình mà hóa độ, không khởi tâm phân biệt hay lợi dụng. “Tuy thế trái tim đại bi vẫn khởi dậy trong họ” đây là đoạn quan trọng trong triết học Lăng Giàtoàn bộ giáo lý Đại thừa. Bồ tát lấy đại bi tâm làm đầu, yêu thương chúng sanh như tình mẹ thương con và nương vào chúng sanh để tu tập tiến đến giải thoát giác ngộ. Những luật tắc và những thệ nguyện của vị Bồ tát, cũng như việc thực hành Bồ tát đạo, được giảng giải khắp các kinh luận Đại thừa. Nói chung, Bồ tát được xem là mẫu người có nhân cách lý tưởng và cao thượng, những giới luật Bồ tát được xem như những chuẩn tắc đưa đến đời sống đạo đức, xây dựng một xã hội tốt đẹp, cuối cùng là đưa hành giả đến sự giải thoát. Bồ tát đi vào đời, vừa tu tập hoàn thiện bản thân vừa làm cho thế gian tốt đẹpnhân bản hơn đúng với lời Đức Phật dạy trong Kinh Trường Bộ (Kinh Đại Bổn): “Này các Tỳ kheo, hãy đi cùng khắp vì hạnh phúc cho đại chúng, vì an lạc cho đại chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì lợi ích, vì an lạc cho loài người, loài trời. Chớ có đi hai người cùng một chỗ… Hãy nêu rõ đời sống phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh. Có những chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe chánh pháp sẽ bị nguy hại. Nếu được nghe sẽ thâm hiểu chánh pháp”. 

“Do bởi mười vô tận nguyện của Ngài, Ngài sẽ đưa tất cả chúng sinh đến sự chín muồi và Ngài hiện ra nhiều hình tướng khác nhau đáp ứng theo yêu cầu của mọi chúng sinh mà sẽ không bao giờ biết ngưng công tác mình ở đâu cả; và tuy vậy, tâm Ngài vẫn luôn an trụ trong trạng thái tự chứng và trong cả sự an hưởng thiền định viên mãn”.

Thứ năm, vị Bồ tát không bao giờ nhập Niết bàn: Kinh Lăng Già đề cập đến năm đẳng cấp chúng sanh: những chúng sanh thuộc hàng Thanh văn, hàng Bích chi Phật, hàng Như Lai, các chúng sanh không thuộc đẳng cấp rõ ràng và các chúng sinh không thuộc những đẳng cấp trên. Bởi vì hạnh nguyện của vị Bồ táthóa độ tất cả chúng sinh không cùng tận, cho nến nếu còn một chúng sanh đau khổ, còn một chúng sinh chưa giác ngộ trong thế giới này thì các Ngài sẽ không nhập Niết bàn: “Do bởi mười vô tận nguyện của Ngài, Ngài sẽ đưa tất cả chúng sinh đến sự chín muồi, và Ngài hiện ra nhiều hình tướng khác nhau đáp ứng theo yêu cầu của mọi chúng sinh mà sẽ không bao giờ biết ngưng công tác mình ở đâu cả; và tuy vậy, tâm Ngài vẫn luôn an trụ trong trạng thái tự chứng và trong cả sự an hưởng thiền định viên mãn”. 

Thứ sáu, bổn nguyện của vị Bồ tát và các vô công dụng hạnh của Ngài: Vị Bồ tát có mười hạnh nguyện lớn lập thệ rộng lớn phát khởi vào lúc khởi đầu sự nghiệp tâm linh, tức là khi Ngài đã nhập địa Bồ tát thứ nhất hay đúng hơn là đời sống Phật, được gọi là Hoan hỷ địa, trải qua mười địa như vậy Ngài đạt đến cuộc sống vô công dụng hạnh. Các vị luôn mang trong mình một trái tim đại bi cứu độ chúng sanh, đó luôn là động lực mạnh mẽ nhất trong suốt quá trình tâm linh của các Ngài. Khi các Ngài đạt đếncông hạnh tức là đang đứng trong Bất động địa, vị Bồ tát có thể chứng được Vô sinh pháp nhẫn

Thứ bảy, mười bổn nguyện của Bồ tát Phổ Hiền: 1. Đảnh lễ tất cả chư Phật. 2. Tán thán tất cả chư Phật. 3. Thực hiện đủ mọi thứ cúng dường, nhất là những gì có thể gọi đủ là cúng dường pháp. 4. Sám hối tất cả các tội lỗi mà các vị đã từng phạm. 5. Chân thành vui mừng vì những công hạnh mà người khác đạt được. 6. Thỉnh cầu Đức Phật chuyển pháp luân. 7. Thỉnh cầu Đức Phật trú thế trong thế giới này. 8. Luôn luôn học từ cuộc sống của Đức Phật. 9. Chăm lo cho tất cả hạnh phúc tâm linh của tất cả chúng sanh. 10. Hồi hướng tất cả công đức của các vị đến sự phát triển thiện và ngăn chặn ác. Đây là mười lời nguyện, và khi thực hành một vị Bồ tát sẽ không biết đến khi nào mới ngưng công việc của các Ngài. Vì việc thực hành không giới hạn không gian thời gian, chừng nào còn một chúng sanh sót lại trong thế gian phải được cứu độ, chừng nào còn có một ham muốn xấu xa thì phải được tiêu diệt. Thế nên, Bồ tát sẽ làm việc không ngừng, không gián đoạn bằng thân, khẩu, ý cho đến lúc tận cùng của thế giới

NHẬN ĐỊNH

Thật vậy, bản chất cốt lõi của vị Bồ tátlấy lòng đại bi làm đầu, xem tất cả chúng sanh là đối tượng của lòng đại từ bi đó. Với những hạnh nguyện lớn lao, các Ngài đi vào đời cứu độ nhân sinh, chưa bao giờ rời bỏ bất kỳ một chúng sanh đau khổ nào lại phía sau cuộc hành trình của mình. Tuệ quán của các Ngài là nhận thứctính không của vạn pháp, những việc cứu độ của họ thì không nằm ngoài thế gian đau khổ này. Điều kiện sống của vị Bồ tát là ở nơi đời sống của những con người bình thường, và lòng từ bi sẽ trở thành chất liệu nền tảng cho tất cả hành động. Vì vậy, con đường Bồ tát không 6 phải là con đường chỉ trải toàn hoa hồng, êm đềm phẳng lặng, bởi vì cuộc đời vốn gập gành và đầy những chướng ngại trên mọi lối đi. Học giả D.T.Suzuki đã nhận định: “Phật giáo là một tôn giáo và như mỗi tôn giáo có mặt xã hộitu tập tâm linh, không có điều này thì Phật giáo sẽ mất lý do để tồn tại. Kinh Lăng Già (Laṇkāvatāra sutra) cũng chuẩn bị cho Bồ tát với sứ mệnh như là một trong những thành viên của cộng đồng xã hội, hoạt động từ thiện hữu ích chúng sanh. Trong khi mục tiêu của Tiểu thừa không ngoài giải thoát cá nhân, đạt A-la-hán, một cuộc sống thánh thiện an tĩnh. Đây là sự khác nhau giữa Đại thừa và Tiểu thừa…”. 

Trong Đại thừa Phật giáo, Bồ tát được chia làm ba hạng: Trí tuệ Bồ tát (Paññādhika), Đức tin Bồ tát (Saddhādhika) và Tinh tấn Bồ tát (Viriyādhika). Trí tuệ Bồ tát là bậc ít thiên về lòng nhiệt thành sùng đạo nhưng kiên trì tinh tấn trên con đường phát triển trí tuệ. Đức tin Bồ tát là bậc sùng mộ, tin tưởng nơi lễ bái thờ phụng. Tinh tấn Bồ tát là bậc thường dựa vào nỗ lực tinh tấn của bản thân. Đức Phật được tôn sùng là bậc Đại Trí tuệ, Ngài đã ở trong vô lượng kiếp sâu xa thực hành Bồ tát đạo đến khi công đức viên mãnthành tựu quả vị Phật Đà. Dù ở vị trí nào, các Ngài luôn luôn hoạt động, làm việc không ngừng nghỉ, không mệt mỏi để cứu độ chúng sinh. Các Ngài vượt ra ngoài mọi ham muốn, không màng đến danh thơm tiếng tốt mà chỉ chú trọng đến sự tận tâm phục vụ. Ai biết, ai hay điều đó không quan trọng, chẳng màng đến tiếng khen chê của nhân thế, các Ngài chỉ một lòng thực hiện hạnh nguyện tự độ độ tha của mình. Vị Bồ tát quên mình trong khi phục vụ chúng sinh, dẫu có hi sinh cả tính mạng. Vị Bồ tát ước mong cho thế gian luôn tốt đẹp, yêu thương chúng sanh như con duy nhất của mình. Bồ tát hòa mình với tất cả mọi người: “Tâm bi của Bồ tát nhằm thực hiện tánh cách bình đẳng giữa Ngài và người khác và cũng đặt mình trong kẻ khác”. Trong quá trình thực hành Bồ tát đạo, các vị không còn ý niệm về cái “tôi”, không có tâm phân biệt. Ngài đồng hóa với tất cả, lấy thiện trả ác, lấy lành trả dữ, giúp đỡ tất cả với trái tim yêu thương vô bờ bến: “Bị nhục mạ nhưng không nhục mạ lại, bị đánh đập nhưng không đánh đập lại, bị làm phiền nhưng không phiền nhiễu ai, Bồ tát một mực giữ đức khoan hồng. Tựa như đất mẹ trầm lặng, Bồ tát âm thầm chịu đựng tất cả những lỗi lầm của kẻ khác”. 

Các vị luôn mang trong mình một trái tim đại bi cứu độ chúng sanh, đó luôn là động lực mạnh mẽ nhất trong suốt quá trình tâm linh của các Ngài. Khi các Ngài đạt đếncông hạnh tức là đang đứng trong Bất động địa, vị Bồ tát có thể chứng được Vô sinh pháp nhẫn.

KẾT LUẬN

Kinh Lăng Già cho thấy rõ những đặc điểmphạm vi hành hoạt của Bồ tát vô cùng đa dạng. Trong thời đại ngày nay, nhiệm vụ của các Ngài càng trở nên phong phú hơn trong xã hội với nhiều hình ảnh, nhiều phương tiện khác nhau mà các Ngài đã thực hiện để đến với cuộc đời. Một ví dụ cụ thể là trong đại dịch Covid-19 vừa qua, trước tiếng kêu than của những người bệnh, những người thực hiện công hạnh như vị Bồ tát đã xuất hiện. Đó có thể là các vị bác sĩ, y tá, thanh niên phát nguyện đem bánh mì đi khắp thành phố cho những người lang thang, sinh viên tình nguyện, các chiến sĩ công an, bộ đội kiểm soát các chốt kiểm dịch, phân phối hàng cứu trợ… và trong đó có cả hình bóng của các “chiến sĩ áo nâu” khoác lên mình chiếc áo blouse trắng hay bộ đồ bảo hộ xông pha nơi tuyến đầu chống dịch. Đông đảo chư Tăng Ni, Phật tử khắp mọi miền đất nước theo tiếng gọi của Tổ quốc đã tình nguyện lên đường chống dịch với nghĩa cử cao đẹp “Lạy Phật con đi phụng sự nhân sinh”. Các vị đã đem đến nguồn năng lượng tích cực, đồng sức đồng lòng chung tay cùng với cả dân tộc chống đại dịch Covid-19.

Tất cả đó là những tấm lòng đại bi của một vị Bồ tát thực thụ, các vị đau với nổi đau của chúng sinh, khóc với nỗi lầm than của chúng sinh, buồn với những mất mát bi thương của những kiếp người cơ cực. Lý tưởng Bồ tát đã, đang và sẽ hóa hiện ở giữa cuộc đời với nhiều hình thức khác nhau để san sẻ tình thương đến tất cả chúng sinh

 

Tài liệu tham khảo

1. Thích Minh Châu (dịch, 2018), Kinh Trường Bộ, kinh Đại Bổn, Hà Nội, Nxb. Tôn giáo
2. Nārada Mahā Thera, Phạm Kim Khánh (Việt dịch, 2019), Đức PhậtPhật pháp, Nxb. Tổng hợp TP HCM. 
3. Daisetz Teitaro Suzuki, Tỳ kheo Thích Chơn Thiện – Trần Tuấn Mẫn (dịch, 2005), Nghiên cứu Kinh Lăng Già, Nxb. Tôn giáo
4. D.T.Suzuki, Studies in the Laṇkāvatāra Sutra, Routledge and Kagan Pual LTD, London, rpt. 1975, tr.214. 
5. Thích Viên Trí (2002), Khái niệm về Bồ tát Quan Thế Âm, Nxb. Tôn giáo.
(Trích: Tạp chí Văn hóa Phật giáo 406)

Tìm Hiểu Hạnh Nguyện Bồ Tát Qua Góc Nhìn Kinh Lăng Già
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2661)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6127)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3041)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3093)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3297)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3226)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3297)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4545)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2722)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5204)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3844)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3833)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3203)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4123)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5035)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3511)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6739)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3953)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3218)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3089)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2954)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5849)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4618)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3483)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2894)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3305)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4420)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5711)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6622)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3693)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4525)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4599)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3957)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3389)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4609)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6033)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5820)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3625)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4679)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4449)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4516)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4258)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4588)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8194)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3912)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5719)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5185)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6802)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6164)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 5982)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5793)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6276)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6773)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 4954)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5559)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6381)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3779)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5401)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
(Xem: 10450)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 6067)
Cúng dườngnuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant