Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Sáu Mươi Hai Tà Kiến Được Mô Tả Trong Kinh Phạm Võng.

17 Tháng Tư 202317:40(Xem: 1291)
Sáu Mươi Hai Tà Kiến Được Mô Tả Trong Kinh Phạm Võng.
Sáu Mươi Hai Tà Kiến Được Mô Tả Trong Kinh Phạm Võng.

Thích Nữ Thánh Thảo

Hoa Vô Ưu

Tóm tắt: Kinh Phạm Võng thuộc Trường Bộ Kinh được kết tập từ rất sớm và trình bày tổng quát các học thuyết của những phái, những du sĩ ngoại đạo đương thời Đức Phật. Bằng tuệ tri của bậc Chánh giác, Đức Thế Tôn đã phản bác, chỉ rõ những sai lầm và nguy hại của những tà kiến ấy. Ngài đã dạy con đường trung đạo để nhân loại đi theođạt được cứu cánh giải thoát.

DẪN NHẬP 

Có nhiều quan điểm cho rằng, Trường Bộ Kinh đứng đầu tiên trong hệ thống Nikāya vì được kết tập sớm nhất và có những bài kinh quan trọng nhất, nhưng cũng có ý kiến rằng sở dĩ được xếp đầu, bởi tính chất các bài kinh có lượng văn tự dài nên được kết tập vào Trường Bộ Kinh. Dù là ý kiến nào đi nữa, cũng không thể phủ nhận những bài kinh trong Trường Bộ Kinh đều hàm chứa giáo lý cốt lõi cũng như những sự kiện quan trọng trong cuộc đời Đức Phậtđời sống Tăng đoàn, như: Kinh Phạm Võng, Kinh Sa-môn Quả, Kinh Đại-bát-niết-bàn… [1].

Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ. Điều này như một sắp xếp đầy thâm ý của các bậc Trưởng lão thời kỳ Phật giáo bộ phái khi kết tập kinh điển, trước hết muốn giới thiệu bức tranh tổng quan về tình hình tôn giáo, quan điểm triết thuyết, tín ngưỡng đa thần, đa giáo phái trong thời Phật tại thế. Qua đó, người muốn tìm hiểu đến giáo lý Đức Phật nắm bắt được đâu là minh triết Phật giáo, đâu là tinh thần mang thiên hướng ngoại đạo, từ đó tỏ tường về các chủ nghĩa, truyền thống các giáo phái thời Phật, làm nền tảng để xây dựng niềm chánh tín với giáo lý Phật Đà.

QUAN ĐIỂM CỦA CÁC PHÁI NGOẠI ĐẠO

Từ những ngày đầu học Phật, tìm hiểu về lịch sử Đức Phật và bối cảnh Phật giáo Ấn Độ, chúng ta ắt hẳn đều biết đến sáu phái ngoại đạo nổi tiếng của truyền thống tín ngưỡng Ấn Độ cổ đại [2], nhưng đó chỉ là con số đại diện cho hàng trăm tư tưởng, học thuyếttín ngưỡng khác nhau tại xã hội Ấn Độ bấy giờ. Đến khi tìm hiểu sâu vào Kinh Phạm Võng, chúng ta mới có thể hình dung được thế nào là thế giới tâm thức đa dạng, thế nào là học thuyết như sợi tóc bị chẻ ra nhiều phần, từ những suy luận thiên kiến được cho là từ kinh nghiệm tu hành của các du sĩ ngoại đạo

Trong tụng phẩm 2 của Kinh Phạm Võng, Đức Phật giảng giải cặn kẽ về 62 tà thuyết hay quan điểm của các phái Sa-môn, Bà-la-môn ngoại đạo đương thời, được phân chia theo 2 thời gian, gồm: 18 quan điểm suy đoán về quá khứ và 44 quan điểm suy đoán về tương lai.

MƯỜI TÁM QUAN ĐIỂM SUY ĐOÁN VỀ QUÁ KHỨ

Có 18 loại chấp vào sự thấy về “ngã” và “thế giới” trong quá khứ mà các Sa-môn, Bà-la-môn cho là từ nhập định, hồi tưởng đời trước để biết được, gồm: 

Bốn “thường trụ kiến – (Sassatavāda)” 

Các Sa-môn, Bà-la-môn nhớ về những đời trước, cách dưới một đến 40 đại kiếp, rồi thẩm sát, suy luận rằng ngã và thế giới là còn mãi.

Bốn “thường trụ vô thường kiến – (Ekaccasassatavāda)”

Từ kinh nghiệm quá khứ, các Sa-môn, Bà-la-môn nhận thấy Brahma – Đại Phạm Thiên thì trường sinh, còn chúng sanh do Brahma tạo ra có sinh tử, cuối cùng kết luận rằng thân không vững bền, chỉ có tâm thường hằng không sanh-diệt “… Cái gọi là mắt, là tai, là mũi, là lưỡi, là thân, cái bản ngã ấy vô thường… Cái gọi là tâm, là ý, là thức, cái bản ngã ấy là thường còn…” [3].

Bốn “hữu biên vô biên kiến – (Antānantavāda)”

Vì thấy “thế gian vũ trụ có chỗ cùng tột; vũ trụ có chỗ cùng tột – thế gian thì không cùng; vũ trụ trên dưới có cùng tột – ngang qua thì không; thế gian vũ trụ không có chỗ cùng tột” [4] nên có phái chủ trương rằng Ngã và thế giớihữu biên, vô biên, vừa hữu vừa vô biên, không hữu cũng không vô biên.

Bốn “ngụy biện hay bất định kiến – (Amarāvikkhepavāda)”

Do không nắm chắc “… không như thật biết “Đây là thiện”… không như thật biết “Đây là bất thiện”…” [5]; do sợ phát biểu sai; sợ chấp thủ; sợ chất vấn; do ngu dốt nên nói không xác thực, không xác định. Nên chủ thuyết này luôn nói vòng quanh, trườn uốn như con lươn, không rõ ràng trong giải đáp, ngụy biện lẩn tránh: “Tôi không nói là như vậy. Tôi không nói là như kia. Tôi không nói là khác như thế… Tôi không nói là không phải như thế. Tôi không nói là không không phải như thế…” [6].

Hai “vô nhân kiến – (Adhiccasamuppannavāda)”

Do dựa vào hồi ức từ cõi vô tưởng, cho rằng “tâm tự nhiên hiện hữu” hoặc dựa vào suy đoán, nên các Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương rằng Ngã và thế giới phát sinh không từ nguyên nhân nào hết. Từ 18 quan điểm thiên kiến trên, chúng ta có thể nhận định, các Sa-môn, Bà-la-môn  dựa vào sự thấy biết, nhớ lại của cá nhân về nhiều kiếp quá khứ, chấp thủ vào những hồi ức đó, cho rằng kinh nghiệm của mình là đúng, rồi áp đặt nó thành một chủ nghĩa, và chỉ tôn thờ chủ nghĩa ấy, không chấp nhận một quan điểm nào khác. 

Đức Phật là người đầu tiên nói lên “giáo lý Duyên sinh” nên hơn ai hết, Ngài hiểu rõ nhất về quá trình sinh khởiđoạn diệt của cảm thọ hay toàn bộ pháp hữu vi đều dựa trên nguyên lý “…cái này có thì cái kia có, cái này sanh thì cái kia sanh, cái này diệt thì cái kia diệt…”. Cảm thọ hiện hữu chỉ khi nào hội đủ các điều kiện từ sự giao thoa giữa căn và trần, nếu các điều kiện không còn, thì cảm thọ cũng biến mất. Như vậy mới đúng với bản chất “vô thường, vô ngã” của chúng.

Bốn mươi bốn quan điểm suy đoán về tương lai

Có 44 loại chấp vào sự thấy về Ngã mà các Sa-môn, Bà-la-môn “…luận bàn về tương lai, chấp kiến về tương lai, y cứ về tương lai, đề xướng nhiều ý kiến sai khác…” [7], gồm:

Mười sáu “hữu tưởng kiến – (Saññīvāda)”

Gồm: 

1. Có sắc; 

2. Vô sắc

3. Vừa có sắc vừa vô sắc

4. Không có sắc cũng không vô sắc; 

5. Hữu biên

6. Vô biên

7. Vừa hữu biên vừa vô biên

8. Không hữu biên cũng không vô biên; 

9. Đồng nhất tưởng; 

10. Sai biệt tưởng; 

11. Hữu hạn tưởng; 

12. Vô hạn tưởng; 

13. Cực lạc

14. Thống khổ

15. Vừa lạc vừa khổ; 

16. Không lạc không khổ. 

Tám “vô tưởng kiến – (Asaññīvāda)”

Chủ trương Ngã là bất biếnsau khi chết thì không còn tri giác, vô tưởng với tám quan điểm: “Ngã có sắc; Vô sắc; Vừa có sắc vừa vô sắc; Không có sắc cũng không vô sắc; Hữu biên; Vô biên; Vừa hữu biên vô biên; Không hữu biên cũng không vô biên” [8]. 

Tám “phi hữu tưởng phi vô tưởng kiến – (Nevasaññīnāsaññīvāda)”

Chủ trương này cho rằng Ngã sau khi chết “chẳng phải còn cũng chẳng phải không còn tồn tại tri giác”, với tám trường hợp

1. Có sắc; 

2. Vô sắc

3. Vừa có sắc vừa vô sắc

4. Không có sắc cũng không vô sắc; 

5. Hữu biên

6. Vô biên

7. Vừa hữu biên vừa vô biên

8. Không hữu biên cũngkhông vô biên.

Bảy “đoạn diệt kiến – (ucchedavāda)”

Chủ trương Ngã bị hoại diệt tất cả sau khi chết. Nguyên nhân vì sự thấy biết bảy trường hợp

1. Các loại sanh bằng thai; 

2. Chư Thiên sáu cõi trời dục; 

3. Phạm thiên ở cõi sắc; 

4. Trời không vô biên xứ

5. Trời thức vô biên xứ

6. Trời vô sở hữu xứ

7. Trời phi tưởng phi phi tưởng xứ, sau khi chết đều không còn.

Năm “Niết bàn hiện tại kiến”

Trường phái này cho rằng, Niết bàn là thứ mà Ngã có thể đạt được trong đời hiện tại bằng những phương cách như là: 

1. Hưởng thụ năm món dục; 

2. Chứng được sơ thiền

3. Nhị thiền

4. Tam thiền

5. Tứ thiền và cho đó đã là cứu cánh.

Bốn mươi bốn tà thuyết trên là những quan điểm mang tính phiến diện của các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào sự thấy biết, suy đoán của cá nhân khi thiền định, tu tập, chấp thủ vào những suy luận đó, cho rằng chủ thuyết của mình là đúng, chỉ tôn thờ chủ nghĩa ấy, không chấp nhận quan điểm nào khác. Từ các quan điểm đã trình bày ở trên, ta có thể phân biệtliệt kê 62 tà kiến thành hai trường phái chính: có 7 quan điểm thuộc thuộc “chủ thuyết đoạn kiến”, chính là bảy quan điểm trong “đoạn diệt kiến – (ucchedavāda)”; và 55 tư tưởng còn lại thuộc về “chủ thuyết thường kiến” [9]. 

tóm lại cho những quan điểm thiên kiến trên, Đức Phật kết luận rằng: “Này các Tỳ kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào, luận bàn… chấp kiến… y cứ về quá khứ tối sơ và tương lai, đề xướng nhiều sở kiến sai khác. Những vị ấy sẽ chấp sáu mươi hai luận chấp trên, hay một trong những luận chấp trên, ngoài ra không có luận chấp nào khác nữa” [10]. Nói đến tà kiến, Đức Phật cũng đã từng xác quyết: “… Này các Tỳ kheo, ta không thấy có một pháp nào khác, mà do pháp ấy, chúng sanh sau khi thân hoại mạng chung, sau khi chết, sẽ bị tái sanh vào cõi khốn khổ, vào cõi dữ, đọa xứ, địa ngục, như trường hợp người có tà kiến” [11].

NGUYÊN NHÂN PHÁT SINH NHỮNG QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU

Nguyên nhân phát sinh quá nhiều luận chấp như trên là do các cảm thọ mà các Sa-môn, Bà-la-môn tự cho là có kinh nghiệm khi lục căn tiếp xúc với lục trần. Theo tiến trình của lý nhân duyên, từ thọ dẫn đến tham ái, tiến tới chấp thủ. Điều này giống như  Kinh Udana diễn tả cái nhìn và chấp thủ phiến diện của các nhà ngoại đạo như người mù sờ một bộ phận của con voi rồi cho rằng: “… Con voi là như thế này, con voi không phải như thế kia! Con voi không phải như thế này, con voi như thế kia! Rồi họ dùng nắm tay để đánh nhau… Cũng vậy, các du sĩ ngoại đạo là những người mù, không có mắt, vì vậy họ gây gổ, tranh cãi, tranh chấp và làm tổn thương nhau bằng những lời nói bén nhọn như mũi tên” [12]. 

Từ sự chấp thủ ấy dẫn đến hệ quả họ phải chịu sự dẫn dắt của nghiệp lực, do không quán triệt được bản chất các pháp vốn dĩ luôn có năm tướng trạng “tập khởi – diệt vong – vị ngọt – nguy hiểm – xuất ly”, nên các quan điểm ấy bị bao trùm bởi “màn lưới cõi trời Phạm”, dù cố nhảy ra khỏi cũng không cách nào vượt thoát. Việc này như những con cá bị bao phủ trong lưới, “…tất cả những vị này đều bị bao phủ trong lưới của sáu mươi hai luận chấp này; dầu có nhảy vọt lên, những vị này vẫn bị hạn cuộc bao phủ ở nơi đây” [13].

TUỆ TRI CỦA ĐỨC PHẬT ĐỐI VỚI QUAN ĐIỂM CỦA CÁC PHÁI NGOẠI ĐẠO

Kinh Phạm Võng nêu lên 62 loại nhận thức về bản ngãthế giới. Nghiên cứu kinh văn, ta có thể nhận thấy sau mỗi một chủ thuyết được đưa ra, Đức Phật đều khẳng định lại rằng: “…Này các Tỳ kheo, Như Lai tuệ tri như thế này: “Những sở kiến ấy, chấp trước như vậy sẽ đưa đến các cõi thú như vậy, sẽ tác thành những định mạng như vậy”…” [14]. 

Vào thời Đức Phật, cũng có nhiều quan điểm ngoại đạo cho rằng con người là bất toàn, cần phải nhiếp phục bằng cách ép xác để kiếp sau được sinh về thiên giới. Từ đó, họ phát minh nên nhiều phương cách khắc kỷ và tu tập theo. Đức Phật đã chối bỏ lối tu này [15]. Và Ngài “như thật tuệ tri sự tập khởi, sự diệt trừ của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự xuất ly của chúng. Nhờ tuệ tri như vậy, này các Tỳ kheo, Như Lai được giải thoát hoàn toàn, không có chấp thủ” [16]. Đức Phật là người đầu tiên nói lên “giáo lý Duyên sinh” nên hơn ai hết, Ngài hiểu rõ nhất về quá trình sinh khởiđoạn diệt của cảm thọ hay toàn bộ pháp hữu vi đều dựa trên nguyên lý “…cái này có thì cái kia có, cái này sanh thì cái kia sanh, cái này diệt thì cái kia diệt…” [17]. Cảm thọ hiện hữu chỉ khi nào hội đủ các điều kiện từ sự giao thoa giữa căn và trần, nếu các điều kiện không còn, thì cảm thọ cũng biến mất. Như vậy mới đúng với bản chất “vô thường, vô ngã” của chúng. 

Triết học Phật giáo không nhìn về con ngườithế giới một cách phiến diện mà có nhãn quan toàn diện hơn, như: Ngũ uẩn duyên sinh, Vô ngã, Tánh không,…

Đạo Phật không đề cao chủ nghĩa duy nghiệm – duy vật [18], cũng không đề cao chủ nghĩa duy lý, Đức Phật bác bỏ mười câu hỏi siêu hình [19] của 62 luận thuyết ngoại đạo. Triết học Phật giáo không nhìn về con ngườithế giới một cách phiến diện mà có nhãn quan toàn diện hơn, như: Ngũ uẩn duyên sinh, Vô ngã, Tánh không,… Trong The Buddha and his Teachings, Đại đức Narada có viết: “Ta không thể xác định khởi điểm của dòng đời của chúng sinh. Nguồn gốc và lịch trình tiến hóa của vũ trụ, Đức Phật không đề cập đến” [20]. Hay ở một đoạn khác, tác giả viết: “Phật giáo chủ trương rằng, chúng ta là sự cấu hợp của hai thành phần Danh và Sắc, Tâm và vật chất, và hai thành phần này ở trong trạng thái luôn luôn biến đổi như một dòng suối trường lưu bất tức” [21]. 

Đối với đường lối tu tập của Đức Phật, Ngài luôn nhấn mạnh mọi người tránh xa các cực đoan, và không thiên chấp bởi điều gì, chỉ theo trung đạo để hướng tới giải thoát, không chủ trương bàn luận về thế giới hữu hình hay vô hình, hữu biên hay vô biên, cũng vượt ra ngoài các chủ nghĩa duy tâmduy vật đơn thuần. Con đường giác ngộ của Phật giáocon đường thánh đạo tám ngành, mà trong đó, chánh kiến dẫn đầu. Như Phẩm Rohitassa thuộc Tăng Chi Bộ Kinh, Đức Phật dạy: “Này hiền giả, Ta tuyên bố rằng: “Tại chỗ nào không bị sanh, không bị già, không bị chết, không có từ bỏ (đời này), không có sanh khởi (đời khác), không có thể đi đến để thấy, để biết, để đạt đến chỗ tận cùng của thế giới”. Nhưng này hiền giả, trong cái thân dài độ mấy tấc này, với những tưởng, những tư duy của nó, ta tuyên bố về thế giới, về thế giới tập khởi, về thế giới đoạn diệt, về con đường đưa đến thế giới đoạn diệt”. Hay nói rõ hơn là nương theo tinh thần trung đạotu tập mới có thể thăng hoa trên lộ trình trí giác. 

“NHƯ LÝ TÁC Ý” – MỘT PHƯƠNG PHÁP TRUNG ĐẠO

Trong giáo lý Phật giáo, thân – khẩu – ý giữ vai trò quan trọng hướng đến nghiệp lành hay dữ dẫn dắt con người. Nghiệp (Kamma) nghĩa là “sự tạo tác, tức là chỉ cho hoạt động của thân tâm như hành vi, hành động, hoặc chỉ cho những hoạt động của thân tâm do ý chí sinh ra” [22]. Như trong Kinh Một Pháp Môn Quyết Trạch (Nibbedhikasutta), Đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, Ta tuyên bố rằng suy tư [sự cố ý] là nghiệp: sau khi suy tư [cố ý], tạo các nghiệp về thân, về lời, về ý” [23]. Sáu mươi hai quan điểm của các ngoại đạo là những tư tưởng được hình thành dựa trên ý nghiệp – quan trọng nhất trong ba loại nghiệp, do tác ý thiên lệch, nên tác thành những tà thuyết dẫn đến tà kiến nhấn chìm họ vào trong vũng lầy của sự chấp thủ không vượt thoát ra được.

Thế nên, Đức Thế Tôn luôn nhắc nhở hàng đệ tử trước khi làm bất kỳ việc gì đều phải dựa trên sự “như lý tác ý” tức là tác ý như thật, dựa trên chánh kiến, chánh tư duytinh thần Trung đạo thì sự tu tập tâm và tuệ mới được thành tựu. Như trong Kinh Tất Cả Lậu Hoặc, Ngài dạy: “Này các Tỳ kheo, do không như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh được sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được tăng trưởng. Này các Tỳ kheo, do như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh không sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được trừ diệt” [24].

ỨNG DỤNG TU TẬP

Qua phân tích về quan điểm từ nhiều phương diện như trên, chúng ta càng nhận thức rõ hơn nguyên nhân dẫn đến những tư tưởng thiên lệch của các nhà du sĩ ngoại đạo và càng sáng tỏ hơn nữa yếu chỉ tu tập theo Phật giáo. Ý niệm là thứ có thể dẫn dắt con người đến bất kỳ cảnh giới nào. Một người xuất gia muốn tu tập đạt đến kết quả viên mãn thì trước hết không thể thiếu Chánh kiến, như lý tác ý và không được xa rời tinh thần Trung đạo, tuệ tri các cảm thọ theo năm tướng trạng như trong Kinh Phạm Võng dạy: “Tập khởi-diệt vong-vị ngọt-nguy hiểm-xuất ly”, không tham đắm và chấp thủ bởi bất kỳ điều gì, cũng không theo bất kỳ một chủ trương nào ra ngoài tinh thần chánh pháp. Trong Kinh Kālāma, Đức Phật dạy: “… Chớ có tin vì nghe báo cáo, vì nghe truyền thuyết, truyền thống…; vì phù hợp với định kiến… vì vị Sa-môn là bậc Đạo sư của mình.”; chỉ khi nào “… Các pháp nếu thực hiệnchấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau…hãy từ bỏ chúng và…  Các pháp nếu thực hiệnchấp nhận đưa đến hạnh phúc an lạc… Hãy tự đạt đến và an trú!…” [25].

KẾT LUẬN

Các quan điểm, học thuyết các Sa-môn, Bà-la-môn ngoại đạo xưa nay vẫn luôn mâu thuẫn với nhau, không mang lại hạnh phúc, an lạc, giải thoát chân thật. Trong tác phẩm An Introduction to Pàli Literature, Dr.S.C. Banerji đã nhận định về Kinh Phạm Võng như sau: “… Trong bài kinh này, Đức Phật đề cập đến những vấn đề triết học quan trọng có quan hệ lãnh vực thế giới, sự hiện hữu của một linh hồn bất tử, về Thượng Đế… Kinh Phạm Võng đã làm nổ tung thế giới của các Bà-la-môn” [26] .

Đối với sự nhìn nhận cũng như thái độ của Phật giáo, với những học thuyết của ngoại đạo, Đức Phật không bao giờ tranh cãi, lý luận với họ: “Này các Tỳ kheo, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ kheo, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời” [27]. Ngài chỉ nêu rõ các quan điểm ấy chưa phù hợp với tinh thần tu tậpquán chiếu của Sa-môn đệ tử Phật. Từ đó, chỉ dạy những phương pháp giúp chúng ta vượt thoát kiến chấp, bảo thủ trong quan điểm cá nhân và nương theo chánh pháp để đạt đến tuệ giác. Kinh Phạm Võng là một bài kinh với nội dung chính nhằm nêu bật lên sự tuệ tri của Đức Phật như tấm lưới lớn, thâu tóm hết tất cả các học thuyết, quan điểm của các phái ngoại đạo đương thời, cho chúng ta có cái nhìn sâu sắc hơn về các học thuyết, cũng như vững tin hơn trong việc lựa chọn một hướng đi đúng đắn, từ đó bước những bước vững chãi trên con đường chánh đạo

 

Chú thích:

[1] HT. Thích Minh Châu (dịch, 1991), Kinh Trường Bộ 1, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam (VNCPHVN), TP. Hồ Chí Minh

[2] Ấn Thuận, Thích Quảng Đại (dịch), Lịch sử tư tưởng Phật giáo Ấn Độ, tr.29; Pháp Sư Thánh Nghiêm, Thích Tâm Trí (dịch),  Lịch sử Phật giáo Ấn Độ, tr.29.

[3] HT. Thích Minh Châu (dịch, 1991), Kinh Trường Bộ 1, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, tr.43.

[4] Bhik. Samādhipuñño Định Phúc, Cuộc đời và những lời dạy của Đức Phật, tr.149.

[5 HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Trường Bộ 1, tr.50.

[6] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Trường Bộ 1, tr.50.

[7] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Trường Bộ 1, tr.39.

[8] Bhik. Samādhipuñño Định Phúc, Cuộc đời và những lời dạy của Đức Phật, tr.150.

[9] Hương Vân dịch, Chuỗi ngọc trai, tr.85.

[10] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Trường Bộ 1, tr.76.

[11] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Tăng Chi Bộ 1, tr.68.

[12] HT. Thích Minh Châu, Kinh Tiểu Bộ I, tr.181.

[13] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Trường Bộ 1, tr.89.

[14] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Trường Bộ 1, tr.34.

[15] Jujiro Takakusu, Tuệ Sĩ (dịch), Tinh hoa triết học Phật giáo, tr.31.

[16] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Trường Bộ 1, tr.34.

[17] HT. Thích Minh Châu (dịch, 1992), Kinh Tiểu Bộ, Kinh Phật tự thuyết (tập I), VNCPHVN, tr.291.

[18] HT. Thích Minh Châu (1992), Trung bộ kinh I, số 3, Kinh Thừa tự pháp, VNCPHVN.

[19] HT. Thích Minh Châu (1992), Tương ưng bộ IV, Phẩm không thuyết, VNCPHVN.

[20] Venerable Nārada Mahāthera (Phạm Kim Khánh dịch, 2010), The Buddha and His Teachings, Buddhist Publication Society, Sri Lanka, tr.367. 

[21] Sđd, tr.427. 

[22] Thích Quảng Độ dịch, Phật Quang từ điển, tập 3, tr.3273a.

[23] HT. Thích Minh Châu, Kinh Tăng Chi Bộ, tr.218.

[24] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Trung Bộ 1, tr.25.

[25] Thích Minh Châu (dịch), Tăng Chi Bộ, tr.214-216.

[26] Dr.S.C. Banerji, An Introduction to Pàli Literature, Tỳ kheo Giác Nguyên dịch, Giới thiệu văn học kinh điển Pàli, tr.22. 

[27] HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Tương Ưng 3, tr.249.

 

Tài liệu tham khảo:

1. HT. Thích Minh Châu (dịch, 1991), Kinh Trường Bộ 1, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam (VNCPHVN), TP. Hồ Chí Minh

2. HT. Thích Minh Châu (dịch, 1992), Trung bộ kinh I, VNCPHVN, TP HCM.

3. HT. Thích Minh Châu (dịch, 1996), Kinh Tăng Chi Bộ 1, VNCPHVN, TP HCM.

4. HT. Thích Minh Châu (dịch, 1991), Kinh Tương Ưng III, VNCPHVN, TP HCM.

5. HT. Thích Minh Châu (dịch, 1992), Tương ưng bộ IV, VNCPHVN, TP HCM.

6. HT Thích Minh Châu (2015), Kinh Tiểu Bộ I, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.

7. Ấn Thuận, Thích Quảng Đại (dịch, 2018), Lịch sử tư tưởng Phật giáo Ấn Độ, Nxb. Hồng Đức. 

8. Pháp Sư Thánh Nghiêm, Thích Tâm Trí (dịch, 2008),  Lịch sử Phật giáo Ấn Độ, Nxb. Phương Đông.

9. Jujiro Takakusu, Tuệ Sĩ (dịch, 2019), Tinh hoa triết học Phật giáo, Nxb. Hồng Đức.

10. Venerable Nārada Mahāthera (Phạm Kim Khánh dịch, 2010), The Buddha and His Teachings, Buddhist Publication Society, Sri Lanka.

11. Venerable K. Sri Dhammananda (1996), Buddhism the Eyes of Intellectuals.

12. Dr.S.C. Banerji, An Introduction to Pàli Literature, Tỳ kheo Giác Nguyên dịch, Giới thiệu văn học kinh điển Pàli, Nxb. Phương Đông.

13. Bhik. Samādhipuñño Định Phúc (2017), Cuộc đời và những lời dạy của Đức Phật, Nxb. Hồng Đức.

14. Hương Vân (dịch, 2011), Chuỗi ngọc trai, Nxb. Phương Đông, TP Hồ Chí Minh

15. Thích Quảng Độ (dịch, 2000), Phật Quang từ điển (tập 3), Hội Văn hóa Giáo dục Linh Sơn Đài Bắc.

16. V.I. Lênin (1980), Toàn tập 18, Nxb. Tiến bộ, Moscow (Nga).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2258)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3418)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4093)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3863)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2811)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3288)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3420)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4470)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3795)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4670)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 3951)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 2943)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3697)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3826)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 2998)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3545)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4385)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3651)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2171)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2544)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 2966)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2649)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4541)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4865)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2779)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5136)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2789)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3196)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4313)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4855)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4606)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3165)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4491)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4211)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6072)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3459)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 3967)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 5941)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5348)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 3967)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 32614)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3117)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4089)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4677)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 3000)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3744)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3478)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6476)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2719)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3176)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4478)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3369)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7226)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4413)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4458)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7131)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2891)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12008)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3889)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3711)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant