Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những vị tông sư luật học thời cận đại

30 Tháng Tư 202313:51(Xem: 1077)
Những vị tông sư luật học thời cận đại
Những vị tông sư luật học thời cận đại

Huy-nhat-On-Gia-Lam


KHAI TỪ

Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.

Năm 2017, thầy Tuệ Sỹ gợi ý cho tôi viết lịch sử dấu vết tông Luật của Phật giáo, được truyền thừa tại Việt Nam từ xa xưa đến cận đại, tôi bắt tay viết vào rằm tháng 7 năm ấy, cho đến nay vẫn còn dang dở. Ở Việt Nam hiện nay, các giới đàn tổ chức cho Tăng ni thọ giới, giới pháp họ thọ lãnh thuộc tông luật Pháp tạng bộ, y cứ trên hệ luật Tứ phần. Tuy nhiên, nhiều Tăng ni thọ giới xong không biết mình thuộc tông nào, bởi vì lịch sử truyền thừa ít có người nhắc tới hay chưa được viết thành thư tịch rõ ràng… Khi tôi viết, tôi lần dấu vết truyền thừa của tông Pháp tạng bộ, tác phẩm chỉ mới đi nửa chặng đường. Tâm nguyện của tôi rất muốn sớm được hoàn thành, và viết đến thời cận đại, để ghi danh các vị tông sư có công hoằng truyền Luật tạnghậu thế ít biết hoặc không biết nhiều. Thời gian đã 7 năm, công tẩn mẩn vẫn chưa có dấu chấm kết. Song vừa rồi, tôi nghiên cứu tông Hóa địa bộ hệ luật Ngũ phần, xem có truyền thừa tại Việt Nam hay không, sẵn tiện tôi khởi niệm kết hợp tóm tắt ý chính sự truyền thừa cả hệ luật Tứ phần và Ngũ phần, kể luôn các vị tông sư hoằng truyền tông Luật thời cận đại, cho độc giả tri tường.

DẤU VẾT TRUYỀN THỪA TẠI VIỆT NAM

Tuệ Kiểu (497-554) nhận định trong Cao tăng truyện: Từ khi Phật giáo truyền về Đông (Trung Quốc) đầy đủ năm bộ luật, là Thập tụngTứ phầnMa-ha-tăng-kỳNgũ phần, và luật bản Phạn của Ca-diếp bộ (chưa được dịch)… tuy các bộ đều được truyền dịch nhưng chỉ có luật Thập tụng là thịnh nhất ở Đông quốc[1].

Luật Thập tụng được La-thập (Kumārajīva) cùng Phất-nhã-đa-la (Puṇyatāra) dịch lần thứ nhất vào năm Hoằng thủy (404), đời Đông Tấn. Năm Hoằng thủy thứ 8 (406), La-thập cùng Ti-ma-la-xoa (Vimalākṣa) dịch tiếp, hoàn thiện thành 61 quyển[2]. Luật Thập tụng của Hữu bộ hoằng dương tại Trung Quốc trước luật Ngũ phần 17 năm. Luật Ngũ phần có mặt từ năm 423. Đến triều Lương năm 552, sa-môn Thích Minh Huy (釋明徽) biên tập Ngũ phần tỳ-kheo-ni giới bản (五分比丘尼戒本) tại chùa Kiến Sơ; rồi đến năm 700 thời Đường, Thích Ái Đồng (釋愛同) biên soạn Di-sa-tắc yết-ma bản (彌沙塞羯磨本) ở chùa Khai Nghiệp[3]. Chúng ta thấy, mặc dầu luật Thập tụng của Hữu bộ thời ấy phát triển như lời Tuệ Kiểu nói nhưng bên cạnh vẫn có “hậu duệ” của Hóa địa bộ kế thừa hoằng truyền luật Ngũ phần với thời gian khá dài.

Lý do vì sao dòng truyền thừa luật Tạng của Hữu bộ cũng như Hóa địa bộ về sau bị tiêu trầm? Bởi khi luật Tứ phần của Pháp tạng bộ được Phật-đà-da-xá (Buddhayaśas) và Trúc Phật Niệm dịch vào năm Hoằng thủy thứ 12 (410), đến thời Nguyên ngụy Hiếu văn đế (471-499), đại sư Pháp Thông xiển dương luật Tứ phần, từ đây tông luật Tứ phần của Pháp tạng bộ (Dharmaguptaka) khuếch trương mạnh dần, đến đầu đời Đường, khi Đạo Tuyên (596-667) xiển dương luật Tứ phần, biên soạn Tứ phần luật tỳ-kheo hàm chú giới bản (四分律比丘含注戒本), Tứ phần luật san phồn bổ khuyết hành sự sao (四分律刪繁補闕行事鈔) v.v… bắt đầu áp đảo các bộ luật khác, luật Thập tụng không được nhiều người trọng thị nữa, dần dà tuyệt tích. Có lẽ luật Ngũ phần cũng chung số phận[4].

Không biết thời kỳ bộ phái Hóa địa hưng phát tại đất Trung Hoa có truyền đến Việt Nam hay không, hoặc họ có đến Việt Nam bằng con đường nào khác, hiện tại chưa tìm thấy tài liệu nào nói đến? Nhưng thời kỳ luật Thập tụng hưng thịnh thì thấy có ảnh hưởng tại Việt Nam qua lịch sử cao tăng Đạo Thiền, ông là người Giao Chỉ, sống ở chùa núi Tiên Châu. Năm Vĩnh minh thứ nhất (483), đến Trung Quốc, ở chùa Vân Cư Hạ tại Chung Sơn, dùng luật Thập tụng dạy Tăng ni[5]. Do đó chúng ta suy đoán trước đó và đến thời Đạo Thiền, luật của Hữu bộ đã được truyền trì tại Việt Nam. Còn sử liệu về tông luật Hóa địa bộ hoằng hóa tại Việt Nam thì trắng hoàn toàn.

Chúng tôi tóm tắt một lần nữa, dấu chân hoằng hóa của bộ phái này được tìm thấy ở phía Nam và Bắc Ấn-độ. Huyền Trang[6] và Nghĩa Tịnh[7] đều gặp họ ở Uḍḍiyāna và Đông Turkestan. Dựa vào tiểu sử dịch giả Buddhajīva (Phật-đà-thập) dịch, có thể biết Luật tạng (luật Ngũ phần) của họ thường lưu hành ở Kaśmīra[8]. Đại sư nổi tiếng học phái Du-già hành (Yogācāra) là Asaṅga (Vô Trước), quê quán ở Puruṣapura, ban đầu ngài là người của Hóa địa bộ[9]. Một tu viện của Hóa địa bộ (Mahīśāsaka) ở phía nam Takṣaśilā được nhắc đến trong bia ký[10]. Mặt khác, họ cũng được chứng thực sống ở Tích-lan (Ceylon)[11]. Họ có một tu viện tại Nāgārjunikoṇḍa (Long thọ sơn [龍樹山]) bên bờ sông Kṛṣṇā[12]. Sử liệu không nói họ đi xa hơn như vùng Giao Chỉ (Việt Nam) và nếu Hóa địa bộtruyền thừa tại Việt Nam hay không phải kể đến giới đàn. Có thể giới đàn đầu tiên là thời Khương Tăng Hội (sinh năm 200), sư thọ giới khoảng năm 220, trong lời tựa kinh An-ban thủ ý, Khương Tăng Hội có nhắc đến từ ‘ba Thầy’ (tam sư) là một bộ phận của thành ngữ giới đàn Phật giáo ‘tam sư thất chứng’, có nghĩa trong nghi thức truyền giới tỳ-kheo hay tỳ-kheo-ni tiêu chuẩn đòi hỏi phải có sự hiện diện của ba thầy: Hòa thượng, yết-ma và a-xà-lê, và bảy thầy làm chứng (hay gọi là thất chứng). Việc nhắc đến ‘ba thầy’ này, phải chăng ám chỉ đến việc thọ đại giới[13]. Mà từ thời Hội đến Đạo Thiền khả nghi là dòng truyền thừa của Hữu bộ.

Trong Đại Việt sử ký toàn thư ghi rằng, Thời nhà Lý (Lý Công Uẩn, 974-1028), Canh tuất, niên hiệu Thuận thiên thứ 1 (1010), cấp độ điệp cho nhân dân làm sãi. Giáp dần, năm thứ 5 (1014), tháng 5, Hữu Nhai tăng thống là Thẩm Văn Uyển tâu xin lập giới trường ở chùa Vạn Tuế, cho tăng đồ thọ giới. Vua chuẩn y. Bính thìn, năm thứ 7 (1016), cấp độ điệp cho hơn một ngàn người ở Kinh sư làm tăng đạo. Kỷ mùi, năm thứ 10 (1019), xuống chiếu cấp độ điệp cho nhân dân trong nước làm tăng. Canh thân, năm thứ 11 (1020, nhằm đời Tống, Thiên hy năm thứ 4), mùa thu tháng 9, Nguyễn Đạo Thanh đi sứ xin được Tam tạng kinh, vua xuống chiếu cho Tăng thống là Phí Trí sang Quảng Châu để đón[14]. Chúng ta có thể suy đoán trong giai đoạn này, vấn đề cấp độ điệp (度牒, cấp chứng minh thư cho Tăng lữ xuất gia) là ảnh hưởng từ Trung Quốc. Tại Trung Quốc cấp độ điệp có từ thời Bắc ngụy. Đến đời Đường, năm Khai nguyên 17 (729), nhà vua hạ chiếu bắt Tăng ni xuất gia phải có Tăng tịch. Và kể từ năm thứ 6 niên hiệu Thiên bảo (747), Tăng ni xuất gia sẽ do triều đình cấp độ điệp để làm bằng chứng miễn lao dịch[15]. Mà từ thời Đường, tông luật Tứ phần đã phát triển mạnh kéo dài đến đời Tống, đời Tống có hai vị luật sư nổi tiếng kế thừa tông luật Tứ phần là Doãn Kham (?-1061) và Nguyên Chiếu (1048-1116). Do đó, thời Lý tại Việt Nam mô phỏng “độ điệp” cấp cho Tăng ni và tổ chức giới đàn có khả năng là truyền giới theo hệ luật Tứ phần của Pháp tạng bộ.

Sau đó một giai đoạn dài 600 năm, có lẽ giới đàn không được tổ chức ở Đàng Ngoài, các vị thiền sư chỉ phát nguyện thọ giới Bồ-tát như Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647-1726), 19 tuổi xuất gia với Thiền sư Chân Trụ Tuệ Nguyệt được đặt pháp danh Tuệ Đăng. Sau đến núi Côn Cương làng Phù Lãng, tham học với Thiền sư Minh Lương ở chùa Vĩnh Phúc, khi đắc pháp được đổi tên là Chân Nguyên. Năm tiếp theo, Chân Nguyên lập đàn Diệu pháp liên hoa, thỉnh Phật Thích-ca, Di-đà và Di-lặc chứng đàn, thiền sư đã đốt hai ngón tay để thọ giới Bồ-tát. Chính thiền sư Chân Nguyên khi soạn tác phẩm Tôn sư phát sách đăng đàn thọ giới bằng Hán văn, ông hoàn toàn im lặng không trình bày nghi thức thọ giới của tỳ-kheo (250 giới), chỉ kể tới giới đàn cho người tại gia thọ năm giới, giới đàn thọ 8 giới, 10 giới của sa-di và giới đàn thọ 58 giới của Bồ-tát. Thời kỳ này theo giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng, Phật giáo mang sắc thái dân tộc, không phải đời sống kỷ luật như tổ chức Phật giáo Ấn-độ[16]. Song trong giai đoạn Phật giáo thế kỷ XVII này, ở Đàng Trong, thời Nguyễn Phúc Thái (1649-1691), Chúa Nguyễn thứ 5, có sư Thạch Liêm (1633-1704) người Trung Quốc, qua Việt Nam tổ chức giới đàn ở chùa Thiền Lâm và chùa Di-đà ở Hội An, cùng năm Ất Hợi, 1695[17]. Cả hai giới đàn này đều thỉnh Tăng Trung Quốc qua truyền, đây chắc chắn cũng là giới đàn theo hệ luật Tứ phần Pháp tạng bộ.

THỜI CẬN ĐẠI

Từ đó cho đến sau này, tại Việt Nam các giới đàn cũng như những vị tông sư truyền thừa đều thuộc tông Pháp tạng bộ. Thời cận đại, nếu kể đến thế hệ thứ nhất truyền thừa luật Tứ phầnHòa thượng Đôn Hậu (1905-1992), Hòa thượngbiên soạn Cách thức sám hối các tội, luật Tứ phần tỳ-kheo-niThế hệ thứ hai là Hòa thượng Thích Trí Thủ (1909-1984), những tác phẩm Hòa thượng trước tác và chủ biên: Luật tỳ-kheo – Tứ phần hiệp chú (1991) 2 tập, Yết-ma yếu chỉNghi thức quy giớiNghi thức truyền giới và bố-tát… (thế hệ này kể thêm, ngoài Bắc có Sư Cụ Bình Minh, trong Nam có Trưởng lão Thiện Hòa, Trưởng lão Hành Trụ). Thế hệ thứ ba là Hòa thượng Thích Đỗng Minh (1927-2005), do công trạng của Hòa thượng hoằng truyền và biên dịch luật học nhiều nhất nên mọi người xưng tụng là Tuyên luật sư. Hòa thượng dịch luật Tứ phầnNgũ phần, Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ tỳ-nại-da, …; trước tác Nghi thức truyền giới, “Tỳ-ni, sa-si, oai nghi cảnh sách văn vần”… Thế hệ thứ tư là Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ (1943-), ngài là người có công chấn hưng, truyền dạy luật học trước tình hình giềng mối Tăng-già rạn nứt trong xã hội đương thời. Ngài đã trùng biên, hiệu đính lại những bộ luật mà quý Hòa thượng dịch thuật trước đó như Tứ phần, Ngũ phần, Tứ phần hiệp chú, Yết-ma yếu chỉ… Và dịch thêm những phần Skandhaka (Kiền-độ) của Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ, như An cư sự, Xuất gia sự… Trước tác Du-già bồ-tát giới

Đến đây chúng ta có thể kết luận, Hòa thượng Trí Thủ có công hoằng truyền tông luật Tứ phần của Pháp tạng bộ thời cận đại, Hòa thượng Đỗng Minh là người đầu tiên truyền dịch luật Ngũ phần của Hóa địa bộ, xem như dấu chân truyền giáo của hai bộ phái này có mặt tại Việt Nam, những người đệ tử cũng như học trò tiếp nối biên tập truyền dạy thì sự kế thừa đó sẽ tiếp diễn đến mai sau. Ví như sự tiếp nối của Hòa thượng Tuệ Sỹ, rồi hậu bối sẽ có người tiếp theo.

Phật lịch 2566 – mùng 6 tháng Giêng, năm Quý mão.
Thích Tâm Nhãn cẩn chí.


[1] 高僧傳 11, T50n2059, p. 403b12.

[2] 高僧傳, p333a20, p333b26.

[3] 二十二种大藏经通检, 中华书局 1982, p. 417, 611.

[4] Cf. zh.wikipedia.org/zh-hans/律宗.

[5] 續高僧傳, T50n2060, p.607b0130. Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam I, p. 783.

[6] Tây Vực ký 3, T 2087, p. 882b18.

[7] Nam hải ký quy nội pháp truyện 1, T 2125, p. 206c1.

[8] Cao tăng truyện 3, T. 2059, p. 339a3; cf. P. Demiéville, A propos du concile de Vaiśālī, in T’oung Pao, XL, 1951, p. 293.

[9] Tây Vực ký 5, T51, No. 2087, p. 896b28.

[10] Epigraphia Indica, I, 1892, No. 29, pp. 238.

[11] Pháp Hiển ở Tích-lan tìm được bản luật của bộ phái này (Cao tăng Pháp Hiển truyện, T 51, No. 2085, p. 865c24).

[12] Cf. E. Frauwallner, ibid., p. 20-21.

[13] Lê Mạnh Thát, Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam I, p. 276; Lịch sử Phật giáo Việt Nam I, p. 310.

[14] Đại Việt sử ký toàn thư II, 2004, p. 257-269.

[15] 佛光大辭典, 慈怡法師主編, p. 3779.

[16] Cf. Lê Mạnh Thát, Toàn tập Chân Nguyên Tuệ Đăng I, 2018, p. 14-55, & vi.wikipedia.org/wiki/Chân_Nguyên.

[17] vi.wikipedia.org/wiki/Thạch_Liêm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 150)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 197)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 222)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 287)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 198)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 252)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 319)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 283)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 298)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 381)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 614)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 474)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 484)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 575)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 752)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 834)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 854)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 842)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 733)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 711)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 714)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 814)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 833)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 941)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 716)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 613)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 711)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 824)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 712)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 707)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 823)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 850)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 826)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 864)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 894)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 886)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1077)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 952)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1670)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1066)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1211)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 955)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1211)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1116)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1123)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1279)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1559)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2032)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1096)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1354)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1097)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 947)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1065)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1099)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1535)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1286)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1290)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1024)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1181)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant