Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Những vị tông sư luật học thời cận đại

30 Tháng Tư 202313:51(Xem: 1069)
Những vị tông sư luật học thời cận đại
Những vị tông sư luật học thời cận đại

Huy-nhat-On-Gia-Lam


KHAI TỪ

Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.

Năm 2017, thầy Tuệ Sỹ gợi ý cho tôi viết lịch sử dấu vết tông Luật của Phật giáo, được truyền thừa tại Việt Nam từ xa xưa đến cận đại, tôi bắt tay viết vào rằm tháng 7 năm ấy, cho đến nay vẫn còn dang dở. Ở Việt Nam hiện nay, các giới đàn tổ chức cho Tăng ni thọ giới, giới pháp họ thọ lãnh thuộc tông luật Pháp tạng bộ, y cứ trên hệ luật Tứ phần. Tuy nhiên, nhiều Tăng ni thọ giới xong không biết mình thuộc tông nào, bởi vì lịch sử truyền thừa ít có người nhắc tới hay chưa được viết thành thư tịch rõ ràng… Khi tôi viết, tôi lần dấu vết truyền thừa của tông Pháp tạng bộ, tác phẩm chỉ mới đi nửa chặng đường. Tâm nguyện của tôi rất muốn sớm được hoàn thành, và viết đến thời cận đại, để ghi danh các vị tông sư có công hoằng truyền Luật tạnghậu thế ít biết hoặc không biết nhiều. Thời gian đã 7 năm, công tẩn mẩn vẫn chưa có dấu chấm kết. Song vừa rồi, tôi nghiên cứu tông Hóa địa bộ hệ luật Ngũ phần, xem có truyền thừa tại Việt Nam hay không, sẵn tiện tôi khởi niệm kết hợp tóm tắt ý chính sự truyền thừa cả hệ luật Tứ phần và Ngũ phần, kể luôn các vị tông sư hoằng truyền tông Luật thời cận đại, cho độc giả tri tường.

DẤU VẾT TRUYỀN THỪA TẠI VIỆT NAM

Tuệ Kiểu (497-554) nhận định trong Cao tăng truyện: Từ khi Phật giáo truyền về Đông (Trung Quốc) đầy đủ năm bộ luật, là Thập tụngTứ phầnMa-ha-tăng-kỳNgũ phần, và luật bản Phạn của Ca-diếp bộ (chưa được dịch)… tuy các bộ đều được truyền dịch nhưng chỉ có luật Thập tụng là thịnh nhất ở Đông quốc[1].

Luật Thập tụng được La-thập (Kumārajīva) cùng Phất-nhã-đa-la (Puṇyatāra) dịch lần thứ nhất vào năm Hoằng thủy (404), đời Đông Tấn. Năm Hoằng thủy thứ 8 (406), La-thập cùng Ti-ma-la-xoa (Vimalākṣa) dịch tiếp, hoàn thiện thành 61 quyển[2]. Luật Thập tụng của Hữu bộ hoằng dương tại Trung Quốc trước luật Ngũ phần 17 năm. Luật Ngũ phần có mặt từ năm 423. Đến triều Lương năm 552, sa-môn Thích Minh Huy (釋明徽) biên tập Ngũ phần tỳ-kheo-ni giới bản (五分比丘尼戒本) tại chùa Kiến Sơ; rồi đến năm 700 thời Đường, Thích Ái Đồng (釋愛同) biên soạn Di-sa-tắc yết-ma bản (彌沙塞羯磨本) ở chùa Khai Nghiệp[3]. Chúng ta thấy, mặc dầu luật Thập tụng của Hữu bộ thời ấy phát triển như lời Tuệ Kiểu nói nhưng bên cạnh vẫn có “hậu duệ” của Hóa địa bộ kế thừa hoằng truyền luật Ngũ phần với thời gian khá dài.

Lý do vì sao dòng truyền thừa luật Tạng của Hữu bộ cũng như Hóa địa bộ về sau bị tiêu trầm? Bởi khi luật Tứ phần của Pháp tạng bộ được Phật-đà-da-xá (Buddhayaśas) và Trúc Phật Niệm dịch vào năm Hoằng thủy thứ 12 (410), đến thời Nguyên ngụy Hiếu văn đế (471-499), đại sư Pháp Thông xiển dương luật Tứ phần, từ đây tông luật Tứ phần của Pháp tạng bộ (Dharmaguptaka) khuếch trương mạnh dần, đến đầu đời Đường, khi Đạo Tuyên (596-667) xiển dương luật Tứ phần, biên soạn Tứ phần luật tỳ-kheo hàm chú giới bản (四分律比丘含注戒本), Tứ phần luật san phồn bổ khuyết hành sự sao (四分律刪繁補闕行事鈔) v.v… bắt đầu áp đảo các bộ luật khác, luật Thập tụng không được nhiều người trọng thị nữa, dần dà tuyệt tích. Có lẽ luật Ngũ phần cũng chung số phận[4].

Không biết thời kỳ bộ phái Hóa địa hưng phát tại đất Trung Hoa có truyền đến Việt Nam hay không, hoặc họ có đến Việt Nam bằng con đường nào khác, hiện tại chưa tìm thấy tài liệu nào nói đến? Nhưng thời kỳ luật Thập tụng hưng thịnh thì thấy có ảnh hưởng tại Việt Nam qua lịch sử cao tăng Đạo Thiền, ông là người Giao Chỉ, sống ở chùa núi Tiên Châu. Năm Vĩnh minh thứ nhất (483), đến Trung Quốc, ở chùa Vân Cư Hạ tại Chung Sơn, dùng luật Thập tụng dạy Tăng ni[5]. Do đó chúng ta suy đoán trước đó và đến thời Đạo Thiền, luật của Hữu bộ đã được truyền trì tại Việt Nam. Còn sử liệu về tông luật Hóa địa bộ hoằng hóa tại Việt Nam thì trắng hoàn toàn.

Chúng tôi tóm tắt một lần nữa, dấu chân hoằng hóa của bộ phái này được tìm thấy ở phía Nam và Bắc Ấn-độ. Huyền Trang[6] và Nghĩa Tịnh[7] đều gặp họ ở Uḍḍiyāna và Đông Turkestan. Dựa vào tiểu sử dịch giả Buddhajīva (Phật-đà-thập) dịch, có thể biết Luật tạng (luật Ngũ phần) của họ thường lưu hành ở Kaśmīra[8]. Đại sư nổi tiếng học phái Du-già hành (Yogācāra) là Asaṅga (Vô Trước), quê quán ở Puruṣapura, ban đầu ngài là người của Hóa địa bộ[9]. Một tu viện của Hóa địa bộ (Mahīśāsaka) ở phía nam Takṣaśilā được nhắc đến trong bia ký[10]. Mặt khác, họ cũng được chứng thực sống ở Tích-lan (Ceylon)[11]. Họ có một tu viện tại Nāgārjunikoṇḍa (Long thọ sơn [龍樹山]) bên bờ sông Kṛṣṇā[12]. Sử liệu không nói họ đi xa hơn như vùng Giao Chỉ (Việt Nam) và nếu Hóa địa bộtruyền thừa tại Việt Nam hay không phải kể đến giới đàn. Có thể giới đàn đầu tiên là thời Khương Tăng Hội (sinh năm 200), sư thọ giới khoảng năm 220, trong lời tựa kinh An-ban thủ ý, Khương Tăng Hội có nhắc đến từ ‘ba Thầy’ (tam sư) là một bộ phận của thành ngữ giới đàn Phật giáo ‘tam sư thất chứng’, có nghĩa trong nghi thức truyền giới tỳ-kheo hay tỳ-kheo-ni tiêu chuẩn đòi hỏi phải có sự hiện diện của ba thầy: Hòa thượng, yết-ma và a-xà-lê, và bảy thầy làm chứng (hay gọi là thất chứng). Việc nhắc đến ‘ba thầy’ này, phải chăng ám chỉ đến việc thọ đại giới[13]. Mà từ thời Hội đến Đạo Thiền khả nghi là dòng truyền thừa của Hữu bộ.

Trong Đại Việt sử ký toàn thư ghi rằng, Thời nhà Lý (Lý Công Uẩn, 974-1028), Canh tuất, niên hiệu Thuận thiên thứ 1 (1010), cấp độ điệp cho nhân dân làm sãi. Giáp dần, năm thứ 5 (1014), tháng 5, Hữu Nhai tăng thống là Thẩm Văn Uyển tâu xin lập giới trường ở chùa Vạn Tuế, cho tăng đồ thọ giới. Vua chuẩn y. Bính thìn, năm thứ 7 (1016), cấp độ điệp cho hơn một ngàn người ở Kinh sư làm tăng đạo. Kỷ mùi, năm thứ 10 (1019), xuống chiếu cấp độ điệp cho nhân dân trong nước làm tăng. Canh thân, năm thứ 11 (1020, nhằm đời Tống, Thiên hy năm thứ 4), mùa thu tháng 9, Nguyễn Đạo Thanh đi sứ xin được Tam tạng kinh, vua xuống chiếu cho Tăng thống là Phí Trí sang Quảng Châu để đón[14]. Chúng ta có thể suy đoán trong giai đoạn này, vấn đề cấp độ điệp (度牒, cấp chứng minh thư cho Tăng lữ xuất gia) là ảnh hưởng từ Trung Quốc. Tại Trung Quốc cấp độ điệp có từ thời Bắc ngụy. Đến đời Đường, năm Khai nguyên 17 (729), nhà vua hạ chiếu bắt Tăng ni xuất gia phải có Tăng tịch. Và kể từ năm thứ 6 niên hiệu Thiên bảo (747), Tăng ni xuất gia sẽ do triều đình cấp độ điệp để làm bằng chứng miễn lao dịch[15]. Mà từ thời Đường, tông luật Tứ phần đã phát triển mạnh kéo dài đến đời Tống, đời Tống có hai vị luật sư nổi tiếng kế thừa tông luật Tứ phần là Doãn Kham (?-1061) và Nguyên Chiếu (1048-1116). Do đó, thời Lý tại Việt Nam mô phỏng “độ điệp” cấp cho Tăng ni và tổ chức giới đàn có khả năng là truyền giới theo hệ luật Tứ phần của Pháp tạng bộ.

Sau đó một giai đoạn dài 600 năm, có lẽ giới đàn không được tổ chức ở Đàng Ngoài, các vị thiền sư chỉ phát nguyện thọ giới Bồ-tát như Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647-1726), 19 tuổi xuất gia với Thiền sư Chân Trụ Tuệ Nguyệt được đặt pháp danh Tuệ Đăng. Sau đến núi Côn Cương làng Phù Lãng, tham học với Thiền sư Minh Lương ở chùa Vĩnh Phúc, khi đắc pháp được đổi tên là Chân Nguyên. Năm tiếp theo, Chân Nguyên lập đàn Diệu pháp liên hoa, thỉnh Phật Thích-ca, Di-đà và Di-lặc chứng đàn, thiền sư đã đốt hai ngón tay để thọ giới Bồ-tát. Chính thiền sư Chân Nguyên khi soạn tác phẩm Tôn sư phát sách đăng đàn thọ giới bằng Hán văn, ông hoàn toàn im lặng không trình bày nghi thức thọ giới của tỳ-kheo (250 giới), chỉ kể tới giới đàn cho người tại gia thọ năm giới, giới đàn thọ 8 giới, 10 giới của sa-di và giới đàn thọ 58 giới của Bồ-tát. Thời kỳ này theo giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng, Phật giáo mang sắc thái dân tộc, không phải đời sống kỷ luật như tổ chức Phật giáo Ấn-độ[16]. Song trong giai đoạn Phật giáo thế kỷ XVII này, ở Đàng Trong, thời Nguyễn Phúc Thái (1649-1691), Chúa Nguyễn thứ 5, có sư Thạch Liêm (1633-1704) người Trung Quốc, qua Việt Nam tổ chức giới đàn ở chùa Thiền Lâm và chùa Di-đà ở Hội An, cùng năm Ất Hợi, 1695[17]. Cả hai giới đàn này đều thỉnh Tăng Trung Quốc qua truyền, đây chắc chắn cũng là giới đàn theo hệ luật Tứ phần Pháp tạng bộ.

THỜI CẬN ĐẠI

Từ đó cho đến sau này, tại Việt Nam các giới đàn cũng như những vị tông sư truyền thừa đều thuộc tông Pháp tạng bộ. Thời cận đại, nếu kể đến thế hệ thứ nhất truyền thừa luật Tứ phầnHòa thượng Đôn Hậu (1905-1992), Hòa thượngbiên soạn Cách thức sám hối các tội, luật Tứ phần tỳ-kheo-niThế hệ thứ hai là Hòa thượng Thích Trí Thủ (1909-1984), những tác phẩm Hòa thượng trước tác và chủ biên: Luật tỳ-kheo – Tứ phần hiệp chú (1991) 2 tập, Yết-ma yếu chỉNghi thức quy giớiNghi thức truyền giới và bố-tát… (thế hệ này kể thêm, ngoài Bắc có Sư Cụ Bình Minh, trong Nam có Trưởng lão Thiện Hòa, Trưởng lão Hành Trụ). Thế hệ thứ ba là Hòa thượng Thích Đỗng Minh (1927-2005), do công trạng của Hòa thượng hoằng truyền và biên dịch luật học nhiều nhất nên mọi người xưng tụng là Tuyên luật sư. Hòa thượng dịch luật Tứ phầnNgũ phần, Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ tỳ-nại-da, …; trước tác Nghi thức truyền giới, “Tỳ-ni, sa-si, oai nghi cảnh sách văn vần”… Thế hệ thứ tư là Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ (1943-), ngài là người có công chấn hưng, truyền dạy luật học trước tình hình giềng mối Tăng-già rạn nứt trong xã hội đương thời. Ngài đã trùng biên, hiệu đính lại những bộ luật mà quý Hòa thượng dịch thuật trước đó như Tứ phần, Ngũ phần, Tứ phần hiệp chú, Yết-ma yếu chỉ… Và dịch thêm những phần Skandhaka (Kiền-độ) của Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ, như An cư sự, Xuất gia sự… Trước tác Du-già bồ-tát giới

Đến đây chúng ta có thể kết luận, Hòa thượng Trí Thủ có công hoằng truyền tông luật Tứ phần của Pháp tạng bộ thời cận đại, Hòa thượng Đỗng Minh là người đầu tiên truyền dịch luật Ngũ phần của Hóa địa bộ, xem như dấu chân truyền giáo của hai bộ phái này có mặt tại Việt Nam, những người đệ tử cũng như học trò tiếp nối biên tập truyền dạy thì sự kế thừa đó sẽ tiếp diễn đến mai sau. Ví như sự tiếp nối của Hòa thượng Tuệ Sỹ, rồi hậu bối sẽ có người tiếp theo.

Phật lịch 2566 – mùng 6 tháng Giêng, năm Quý mão.
Thích Tâm Nhãn cẩn chí.


[1] 高僧傳 11, T50n2059, p. 403b12.

[2] 高僧傳, p333a20, p333b26.

[3] 二十二种大藏经通检, 中华书局 1982, p. 417, 611.

[4] Cf. zh.wikipedia.org/zh-hans/律宗.

[5] 續高僧傳, T50n2060, p.607b0130. Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam I, p. 783.

[6] Tây Vực ký 3, T 2087, p. 882b18.

[7] Nam hải ký quy nội pháp truyện 1, T 2125, p. 206c1.

[8] Cao tăng truyện 3, T. 2059, p. 339a3; cf. P. Demiéville, A propos du concile de Vaiśālī, in T’oung Pao, XL, 1951, p. 293.

[9] Tây Vực ký 5, T51, No. 2087, p. 896b28.

[10] Epigraphia Indica, I, 1892, No. 29, pp. 238.

[11] Pháp Hiển ở Tích-lan tìm được bản luật của bộ phái này (Cao tăng Pháp Hiển truyện, T 51, No. 2085, p. 865c24).

[12] Cf. E. Frauwallner, ibid., p. 20-21.

[13] Lê Mạnh Thát, Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam I, p. 276; Lịch sử Phật giáo Việt Nam I, p. 310.

[14] Đại Việt sử ký toàn thư II, 2004, p. 257-269.

[15] 佛光大辭典, 慈怡法師主編, p. 3779.

[16] Cf. Lê Mạnh Thát, Toàn tập Chân Nguyên Tuệ Đăng I, 2018, p. 14-55, & vi.wikipedia.org/wiki/Chân_Nguyên.

[17] vi.wikipedia.org/wiki/Thạch_Liêm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1618)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1540)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1486)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1456)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1400)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1312)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1361)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1698)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1915)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1426)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1086)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1418)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1983)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1449)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1542)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1377)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2838)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1367)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1401)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1705)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1663)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1622)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1458)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2619)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1599)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1598)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1397)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1416)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1599)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1537)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1437)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1416)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1504)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2177)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1530)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1475)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1592)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1816)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1505)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1375)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1645)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1385)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1670)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2355)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1444)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1932)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1656)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1728)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1598)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1924)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1656)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1418)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1713)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1566)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1524)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1313)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1239)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1279)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1513)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1626)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant