Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tài Nghệ “giảng Kinh Thuyết Pháp” Của Đại Sư Đế Nhàn

Wednesday, January 22, 202519:12(View: 771)
Tài Nghệ “giảng Kinh Thuyết Pháp” Của Đại Sư Đế Nhàn

Tài Nghệ “giảng Kinh Thuyết Pháp”  Của Đại Sư Đế Nhàn

Thích Trung Nghĩa

hinhphat34

Đế Nhàn, gọi đầy đủ là Cổ Hư Đế Nhàn, là tổ sư đời thứ 43 Thiên Thai tông, một bậc cao Tăng cận đạiphạm hạnhcao khiết, giỏi giảng kinh thuyết pháp, độ chúng rất đông. Đệ tử xuất gia của ngài có nhiều vị xuất cách như pháp sư Bảo Tĩnh, Đàm Hư v.v... Căn cứ Trung Quốc đại bách khoa toàn thư, ngài có hơn 10 vạn đệ tử cư sĩ tại gia.

Đế Nhàn sinh năm 1858, vốn dĩ tư chất thông tuệ, sau khi xuất gia thì siêng nghiên cứu kinh Pháp Hoakinh Lăng Nghiêmgiáo quán Thiên Thai v.v... Ngài thọ cụ túc giới năm 24 tuổi, không lâu sau nhập thất tại Từ Khê Thánh Quả am với thời gian ba năm, công phu thiền định thâm sâu. Căn cứ Đế Nhàn pháp sư di tập (谛闲大师遗集) của pháp từ Đàm Hư biên soạn hiệu đính, đầu Bài tựa ghi “Đế công lão nhân, tự tu tập từng bế quan ba lần, chẳng khác tổ sưBồ-đề-đạt-ma diện bích”. Sau khi bế quan, theo nhu cầu của thính chúng, ngài hay giảng thuyếtthính chúng rất đông; có một ngày nọ, ngài lên pháp tòa giảng kinh Pháp Hoa, đến phẩm Thọ ký Xá-lợi-phất, bèn tịch nhiên nhập vào thiền định, im lìm chẳng nói một lời, lát sau xuất khỏi thiền địnhbiện tài vô ngạidiễn thuyết thao thao bất tuyệt như ghềnh thác chảy xiết. Kinh điển Đại thừa thời kỳ đầu như Kinh Pháp Hoa, phẩm Pháp sư cập đến đại pháp sư, chỉ cho vị thầy tinh thông và truyền giảng Phật pháp lưu loát. Trong Tì-nại-da tạp sự quyển 13 chia ra có năm loại sư: Kinh sưluật sưluận sưpháp sư (người giỏi giảng pháp), thiền sưĐạo giáo cho rằng người tinh thôngnghiên cứu kinh văn Đạo giáo thì gọi là pháp sư; thầy mo trừ ma quái bùa chú cũng được gọi là pháp sưKinh A-di-đà nói “Các đức Phật lè lưỡi che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật, các ngươi nên tin kinh này......” cũng nhằm nói biện tài vô ngại bất khả tư nghị của các đức Phật. “Quảng trường thiệt” cũng là một trong ba mươi hai tướng tốt của đức Phật; mượn lấy ý nghĩa này, lần nọ nhà văn học Tô Đông Pha ngao du Lô Sơn, bất chợt lĩnh hội “nước suối cảnh núi” (khê thanh sơn sắc”, ngủ trong Đông Lâm khuya khoắt mà sáng tác bài Tặng Đông Lâm tổng trưởng giả (赠东林总长老) ngõ hầu hoài niệm và tán dương trưởng lão chùa Đông Lâm Huệ Viễn, trong đó hai câu đầu là:

“Tiếng suối chảy róc rách liên tục bên tai cũng như lưỡi của các đức Phật trong mười phương le ra, mây mù trên núi cũng là pháp thân thanh tịnh của đức Phật” (Khê thanh tiện thị quảng trường thiệt, sơn sắc khải phi thanh tịnh thân 溪声尽是广长舌, 山色无非清浄身)[1]

Ngài và tổ sư Ấn Quang kết duyên liên hoa, hỗ trợ nhau hoằng dương chánh phápẤn Quang trùng hưng Tịnh độ tôngĐế Nhàn hoằng truyền giáo quán Thiên Thai, Ấn tổ “Hoằng dương tịnh độ, mật hộ chư tông”, Đế công “Giáo diễn Thiên thai, hành quy tịnh độ”, đôi bên dùng thi từ xướng hợp tặng đáp lẫn nhau.

Ngài chú sớ trước thuật rất nhiều như Lăng Nghiêm kinh tự chỉ muội sớ, Niệm Phật tam muội bảo vương luận nghĩa thù, Đại thừa chỉ quán thuật ký v.v... Tông phái này có rất nhiều thuật ngữ đặc thù như nhất niệm tam thiêntam đế viên dung nhất tâm tam quán, v.v. thực rasự hình thành học thuyết chỉ quán của Thiên Thai Trí Di được ảnh hưởng từ Đại thừa khởi tín luận,[2] trong Tu tập thiền tọa chỉ quán pháp yếu của Trí Di, lúc nói về tu tập chỉ quánrõ ràng nêu lên cần phải lấy chánh niệm trong Khởi tín luận nói để khắc phục tâm bay nhảy. Thiên thai tông là một tông phái đặc sắc trên lịch sử Phật giáo Trung Quốcảnh hưởng trực tiếp từ hệ thống lý luận rộng lớn của các tông phái mà cấu kiện thành. Trong bản văn Thiên thai tông (天台宗) của nhà Phật học Lữ Trừng nổi tiếng, cho rằng khởi nguyên tư tưởngchính yếu của Thiên Thai tông là từ “Thuyết thực tướng và tư tưởng phán giáo của các tổ sưTuệ Tư, Trí Di”, thuyết “tánh cụ thực tướng ( 性具实相) là tư tưởng thành thục cuối cùngcủa Trí Di, lý luận trọng tâm của Thiên thai tông.

Ngài còn sáng lập Quán tông học xá, Quán tông liên xãPhật học nghiên cứu xã, truyền giảng kinh Lăng NghiêmBách pháp minh môn luậnBát thức quy cũ tụng và các bộ luận của Thiên Thai tông như Quán kinh sớ sao của Trí Di, Thiên Thai tứ giáo nghi chú quán của Thích Đế Quán thời Tống v.v... tại Kim Lăng khắc xứ kinh v.v... Ngài tuân thừa di chí của tứ tổ Thiên Thai tông Tri Lễlập chí không phục tổ đình, tàng kinh các, niệm Phật đường lấy tam quán làm tông, thuyết pháp làm dụng, đổi Quán tông tự thành Quán tông giảng tự, thời gian sau chùa này thành chùa cổ nổi tiếng ở khu vực Đông Nam.

Ngài viên tịch năm 1932, tự tại mĩm cười vãng sanh. Trong Cảnh trần hồi ức lục của pháp sưĐàm hư mô tả cụ thể về việc này, trưa ngày 2 tháng 7, Đế công chợt hướng về phía Tây chắp tay, trầm mặc rất lâu rồi nói: “Phật đến tiếp dẫn”. Thị giả dùng nước có chứa các hương hoa lau y phục ngài, ngài kế đó viết bài kệ: “Ta từng niệm Phậttịnh độ trước mặtchân thật thọ dụng, xin các người siêng” , viết xong, còn dạy Tăng chúng tập trung lên chánh điện niệm Phật, để nghinh đón Tây phương Tam thánh giáng lâm, ngài ngồi kiết già theo tiếng niệm Phật mà chết. Sau khi chết, nét mặt sắc vàng, xương cốt khiết tịnh, trên đỉnh đầu hơi âm như lửa, lâu vẫn không tan. Nhà triết học Tương Duy Kiều cũng là đệ tử năm giớicủa ngài, từng làm bài điếu văn:

“Thuyết pháp bốn mươi tám năm, giáo quán viên dungmô phạm rủ khắp cõi trời và cõi ngườithị tịch ngày ba tháng bảy, đoan nghiêm an tường mà qua đời, vô biên cõi nước hiện trang nghiêm”.

Trong Ấn Quang pháp sư văn sao tam biên ghi, Ấn Quang khen ngài là bậc “Chân tu thực chứng, cũng là đảm nhậm đại chấn hưng nhị tôngThiên thai tông, Mật tông”. Trong Tăng quảng Ấn Quang pháp sư văn sao, Bài tựa ghi: “Đại sư Đế Nhàn bốn mươi năm sau này, phụng lời chân thực của đức Thích Tôn, tuân bi nguyện của đại sư Trí Giả, cho nên tự tu hành mà kiêm đem đến lợi ích cho người, chỗ quy kết cũng không ngoài một câu A-di-đà Phật, tín, nguyện vãng sanh mà thôi”.

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 1479)
Phân biệt phước đức và công đứccần thiết cho việc học và hành đạo Phật.
(View: 1555)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(View: 1351)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(View: 1810)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinhphổ biến vào thời của Đức Phật,
(View: 1662)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(View: 1729)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêmđi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(View: 1354)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(View: 1569)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(View: 1648)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(View: 1955)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(View: 1604)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diệnthế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(View: 1668)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(View: 1913)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(View: 1876)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chấttinh thần.
(View: 1592)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(View: 1962)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(View: 2116)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(View: 2567)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(View: 2139)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(View: 2064)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(View: 1924)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(View: 1879)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(View: 1993)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(View: 2109)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(View: 1816)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(View: 2272)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(View: 1876)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(View: 1789)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(View: 1953)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(View: 2177)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(View: 1942)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(View: 2103)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(View: 2079)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(View: 1980)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(View: 2192)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(View: 2071)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(View: 2137)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(View: 2070)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(View: 2151)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(View: 2450)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(View: 4582)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(View: 2451)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(View: 2341)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(View: 2022)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(View: 2535)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(View: 2296)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(View: 2173)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(View: 3008)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(View: 3756)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(View: 4813)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(View: 2353)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(View: 2768)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(View: 2406)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(View: 2315)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(View: 2264)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(View: 2234)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(View: 2892)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(View: 2506)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(View: 2698)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM