Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 76: Hoa trái của ngày hôm nay

12 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 14832)
Chương 76: Hoa trái của ngày hôm nay


Đường xưa mây trắng
theo gót chân Bụt

Thích Nhất Hạnh
Lá Bối Xuất Bản lần 2, 1992, San Jose, Cali, USA

--- o0o ---

16.

Chương 76

HOA TRÁI CỦA NGÀY HÔM NAY

Mùa an cư chấm dứt, các vị khất sĩ và nữ khất sĩ còn chưa kịp lên đường hành hóa thì nghe chiến tranh bùng nổ giữa hai vương quốc Kosala và Magadha. Đại binh của nước Magadha đã vượt sông Hằng đi vào xứ Kasi, thuộc lãnh thổ Kosala. Quốc vương Ajatasattu Videhyputta tự tay thống lãnh binh tướng qua chinh phạt nước Kosala. Tướng lãnh thống suốt cả voi, ngựa, xe và pháo, đang hướng về phía thành Baranasi, thủ phủ xứ Kasi. Bên phía vương quốc Kosala sau khi được thám tử thông báo, cũng đã chuẩn bị quân đội gồm đủ voi, ngựa, xe và pháp nhắm xứ Kasi tiến tới. Việc binh quá cấp thúc, vua không kịp đến thông báo và từ giã Bụt, vua nhờ thái tử Jeta tới trình mọi sự với Bụt thay vua.

Bụt đã từng được thông báo rằng sau khi nghe tin Ajatasattu mưu sát cha để lên ngôi, quốc vương Pasenadi đã tỏ ý phản kháng bằng cách lấy lại lãnh thổ của thục ấp vùng Baranasi mà ngày xưa thượng hoàng đã tặng cho vua Bimbisara như vật hồi môn của công chúa Kosaladevi, khi công chúa về nhà chồng. Thục ấp này từ gần bảy mươi năm nay đã đem lại cho vương quốc Magadha mỗi năm một số tiền thuế trị giá một trăm ngàn đồng vàng. Vua Ajatasattu không chịu đựng được hành động phản kháng này cho nên đã cất binh sang đáng.

Đại đức Sariputta thông báo cho các vị nam nữ khất sĩ ở đâu thì nên hành đạo ngay tại đó, đừng di chuyển nhiều trong thơì buổi chiến tranh. Đại đức cũng xin Bụt ở lại Savatthi cho đến khi tình hình yên tĩnh.

Hai tháng sau dân chúng kinh hoàng nghe tin binh tướng Kosala đã thất trận tại Kasi. Vua Pasenadi và các tướng phải rút tàn binh chạy về kinh đô. Tình hình rất khẩn trương. May thay, hệ thống phòng thủ tại Savatthi rất là kiên cố. Binh tướng của vua Ajatasattu đã đuổi theo và công kích ngày đêm mà cũng không hạ được nổi thành. Sau đó, nhờ kế hoạch của tướng Bandhula, vua Pasenadi phối hợp được quân trong thành và quân từ các địa phương kéo tới để mở một cuộc tổng phản công. Lần này vua thắng lớn, vua Ajatasattu cùng các vị tướng soái dưới quyền đều bị bắt sống. Quân Kosala bắt được trên một vạn tù binh. Số binh lính còn lại, hoặc chết hoặc bỏ chạy tán loạn, có đến trên một vạn. Ngoài ra, quân đội Kosala lại chiếm được rất nhiều voi, ngựa, xe và pháp của bên địch.

Chiến tranh đã kéo dài hơn sáu tháng, dân chúng Savatthi được lệnh tổ chức và ăn mừng thắng trận. Sau khi thu xếp công việc triều đình và binh đội, vua Pasenadi đến thăm Bụt tại tu viện Trúc Lâm.

Vua kể cho Bụt nghe những gian nan của cuộc chiến. Vua nói rằng quốc vương Ajatasattu đã tỏ ý gây hấn; vua chỉ chiến đấu tự vệ thôi chứ không hề chịu trách nhiệm về việc châm lửa chiến tranh. Vua trình với Bụt là có lẽ quốc vương Ajatasattu đã nghe lời những vị mưu thần nhiều quá.

- Bạch Thế Tôn, quốc vương Magadha dù sao cũng là cháu của trẩm, trẫm không nỡ giết, cũng không nỡ bỏ nó vào chốn lao tù, xin Bụt chỉ dạy cho trẫm.

Bụt nói:

- Đại vương, xung quanh đại vương có biết bao nhiêu người thần tử và bạn hữu trung thành. Đại vương thắng trận này không có gì là lạ, nhưng xung quanh quốc vương Ajatasattu có nhiều phần tử xấu, và vì vậy vua ấy đã đi lầm đường lạc nẻo. Như lai xin đề nghị là đại vương nên lấy lẽ để tiếp đãi quốc vương Magadha cho đúng cung cách của một ông vua đối xử với một ông vua, nhưng đại vương cũng phải có thì giờ để dạy quốc vương Magadha như dạy một người cháu ruột. Đại vương hãy nhấn mạnh đến sự cần thiết của những người bạn hữu tốt và những kẻ thần tử trung kiên, và cuối cùng đại vương có thể đặt tiệc và đưa vua xứ Magadha về nước, nền an binh của trăm họ tùy thuộc nơi sự khéo léo của đại vương.

Rồi Bụt cho gọi một vị khất sĩ trẻ tên là Silavat lên và giới thiệu vị này với vua Pasenadi. Khất sĩ Silavat vốn là một vị thái tử, con vua Bimbisara, em cùng cha nhưng khác mẹ với vua Ajatasattu. Silavat là một người con trai khá thông tuệ; từ mười sáu tuổi, chàng dã được theo học với đại đức Moggallana và đã là một người đệ tử tại gia xuất sắc của đại đức. Sau cuộc chính biến xảy ra tại thủ đô Rajagaha, chàng đã xin đại đức cho chàng xuất gia. Sau lễ xuất gia, khất sĩ Silavat đã được gởi về tu viện Jetavana ở thủ đô Savatthi để tu học. Đại đức Moggallana nghĩ rằng dù Silavat không có ý tranh dành quyền hành với vua Ajatasattu, nhưng gởi vị khất sĩ này qua tu học ở nước Kosala vẫn là có an ninh hơn.

Vua Pasenadi hỏi thăm đại đức Silavat về tình trạng hoàng gia bên Rajagaha và thầy đã cung kính nói hết cho vua nghe tất cả những gì thầy tai nghe mắt thấy.

Đại đức cho vua biết là năm ngoái đã có một người từ thủ đô xứ Magadha tới với sứ mạng ám sát đại đức, nhưng đại đức đã cải hóa được người ấy và độ cho người ấy được xuất gia. Hiện vị khất sĩ kia đang được tu học ở một trung tâm không xa thành phố.

Quốc vương Pasenadi cung kính lạy tạ Bụt và trở về cung điện.

Vua Ajatasattu sau đó được trả tự do và đưa về nước. Lấy tình thương để xóa bỏ hận thù, vua Pasenadi lại đem công chúa Vajira mà gã cho vua Ajatasattu nữa. Quốc vương Ajatasattu đã là cháu nay lại trở nên con rể của vua. Vua còn hứa sẽ trả lại thục ấp ở Baranasi mà ngày xưa thượng hoàng Maha Kosala đã tặng cho xứ Magadha. Quốc vướng sứ Kosala đã nghe lời Bụt một cách đúng mức.

Chiến tranh đã kết thúc, các vị khất sĩ và nữ khất sĩ lại được phép lên đường hoằng hóa.

Vua Pasenadi truyền xây dựng một tu viện mới cho giáo đoàn khất sĩ tại ven thủ đô. Tu viện này lấy tên là Rajakarama.

Bụt ở lại vương quốc Kosala liên tiếp trong hai năm, an cư mùa mưa tại tu viện Jetava và đi giáo hoá ở nội địa trong những thời gian còn lại. Thỉnh thoảngtin tức từ vương quốc Magadha do các vị khất sĩ du hành đem về cho Bụt. Các vị ấy kể sau khi Bụt rời vương quốc, đại đức Devadatta không còn được vua Ajatasattu kính nể nữa. Trong số hơn một trăm vị khất sĩ còn ở lại với đại đức, tám mươi vị đã bỏ đại đức để trở về với giáo đoàn của Bụt và đều được đón nhận trở lại tại tu viện Trúc Lâm. Đại đức càng ngày càng bị cô lập. Gần đây đại đức bị ốm nằm liệt trên núi Gayasisa, không đi đâu được cả. Từ ngày chấm dứt chiến tranh giữa hai nước Kosala và Magadha, vua Ajatasattu cũng không còn gặp gỡ đại đức Devadatta. Vua cũng không có liên lạc nào giáo đoàn khất sĩ của Bụt. Vua chỉ thân cận với các vị lãnh đạo của những giáo phái khác. Tuy vậy giáo đoàn khất sĩ vẫn được tiếp tục hành đạo một cách yên ổn. Dân chúng cũng như các vị khất sĩ rất mong ước được Bụt trở về. Núi Linh Thứu và tu viện Trúc Lâm vẫn còn chờ đợi Bụt. Y sĩ Jivaka cũng rất tha thiết mong Bụt trở về.

Mùa lạnh năm ấy hoàng hậu Mallika băng. Vua Pasenadi buồn quá, tìm tới Bụt để được an ủi. Hoàng hậu là một người bạn đời rất xứng đáng của vua và đã được vua thương yêu hết lòng. Hoàng hậu là một người theo Bụt thuần kính, thông minh, sáng suốt, thông hiểu giáo pháp một cách sâu xa. Ngay trước khi vua được gặp Bụt và tin Bụt, bà đã khuyên vua hành động cho phù hợp chánh pháp. Có lần vì nằm mộng thấy những điều quái gỡ, vua Pasenadi nghĩ rằng sẽ có những việc rủi ro xảy đến cho mình. Tin vào các vị Bà la mônđạo sĩ ngoại đạo, vua đã cho chuẩn bị tổ chức tế đàn, sát hại trâu bò để cầu thân linh phù hộ. Chính hoàng hậu đã can gián vua, thuyết phục vua hủy bỏ dự án thiết lập tế đàn. Hoàng hậu còn tham dự và bàn bạc về cả chính sự và soi sáng cho vua rất nhiều trong lúc vua đi tìm những quyết địnhliên hệ tới vận mạng của đất nước. Hoàng hậu là một trong những nữ đệ tử tại gia xuất sắc của Bụt. Bà rất ham học hỏi về giáo lý. Bà có thành lập một công viên với một hàng rào cây tinduka bao quanh, có hội trường để tham cứu về giáo pháp. Bà đã có mời Bụt và các cao đức tới hội trường này để thuyết pháp và hướng dẫn những cuộc thảo luận. Công viên này cũng mở cửa cho những vị lãnh đạo các giáo phái khác.

Đau khổ vì bị mất người bạn đời đã bốn mươi mấy năm sống chung, vua tìm đến Bụt. Ngồi yên lặng thật lâu bên Bụt, vua cảm thấy tâm hồn an tịnh trở lại. Vua nghe lời Bụt để thêm thì giờ vào việc tu tập thiền quán. Bụt nhắc lại lời vua nói trước đây là khi tuổi về già, mình phải tinh cần sống đúng theo chánh pháp và tạo hạnh phúc cho mọi người. Bụt khuyên vua tìm cách cải thiện guồng máy tư pháp và kinh tế. Người nói những hành phạt như đánh đập, tra tấn, giam cầm và tử hình không phải là biện pháphiệu lực nhất để ngăn chận trộm cướp. Gặp thời đói kém và loạn lạc, những vụ trộm cướp và bạo động tự nhiên tăng lên bội phần, vì vậy chánh sách an dân và giúp dân xây dựng lại kinh tế là chánh sách căn bản. Những biện pháp cần làm là cấp thực phẩm, lúa giống và phân bón cho nông dân nghèo để họ có thể sinh sống và sản xuất, cấp vốn cho nhà buôn, tăng lương bỗng cho công tư chức, miễn thuế cho dân nghèo, phế bỏ phương pháp đe dọa, bắt buộc và đàn áp người lao công, cho họ chọn làm những nghề mà họ thật sự ưa thích, tạo cơ hội và phương tiện cho họ được hành những nghề ấy. Bụt nói chánh sách kinh tế phải là một chánh sách tự nguyện. Những lời dạy về chính trị này, nhờ ngồi bên Bụt, hôm ấy đại đức Ananda đã được nghe. Đại đức đã trùng tuyên lại những ý này trong kinh Kutadanta.

Một buổi chiều tại tu viện lộc Mẫu, đại đức Ananda thấy Bụt xoay lưng về phía mặt trời, đại đức không hiểu tại sao, bởi vì Thế Tôn thường ưa nhìn cảnh mặt trời khuất bóng, đại đức tới gần và hỏi Bụt. Bụt nói Bụt đứng như thế để cho ánh sáng mặt trời sưởi ấm lưng người. Đại đức lấy tay xoa lưng Bụt một hồi lâu cho ấm, rồi đại đức mời Bụt ngồi xuống ghế tre và xoa bóp hai chân cho Bụt.

Vừa xoa bóp, đại đức vừa nói:

- Thế Tôn, con đã được làm thị giả cho Thế Tôn mươì lăm năm nay, con nhớ những năm trước, nước da của người còn vàng ánh và óng mướt, nay da Thế Tôn đã nhăn và những bắp thịt nơi chân Thế Tôn đã teo lại rất nhiều, những lóng xương lộ ra rất rõ.

Bụt cười:

- Sống lâu thì già, có sao đâu Ananda! Mắt và tai của Như lai cũng không còn được tinh nhuệ như trước. Ananda! Thầy có nhớ núi Thứu và những khóm tre ở tu viện Trúc Lâm không? Thầy có muốn về leo lên núi Thứu để nhìn cảnh mặt trời khuất bóng không?

- Lạy Bụt, nếu Bụt muốn về Linh Thứu, con xin đi theo hầu người.

Mùa nóng năm ấy Bụt lên đường trở về thủ đô nước Magadha. Người đi thong thả: lộ trình được chia ra nhiều chặng. Người ghé thăm những trung tâm tu học, dạy dỗ giới xuất gia, thuyết pháp và nhắc nhở giới tại gia. Người đi qua nội địa các vương quốc Sakya, Malla, Videha, Vajji, và cuối cùng vượt sông Hằng qua nước Magadha. Trước khi về thủ đô, người ghé thăm trung tâm tu học tại Nalanda.

Tu viện Trúc Lâm và núi Linh Thứu vui như ngày hội khi Bụt về tới. Dân chúng thủ đô và các miền lân cận đổ xô về thăm Bụt rất đông. Cả một tháng sau khi Bụt về tới, y sĩ Jivaka mới có dịp mời được Bụt về vườn Xoài của ông. Tại vườn Xoài xanh mát này, y sĩ đã dựng được một giảng đường lớn đủ chỗ cho Bụt nói chuyện vớí khoảng một ngàn vị khất sĩ.

Ngồi trước tịnh thất của người tại vườn Xoài, Bụt nghe Jivaka kể lại những chuyện đã xảy ra trong triều đình và vương quốc. Ông nói hiện thái hậu Videhi đã tìm lại được nếp sống an tĩnh. Bà ăn chay, tập thiền, quán niệm về Tam Bảo một cách thường xuyên Vua Ajatasattu đang bị khủng hoảng tâm lý trầm trọng, bị ám ảnh bởi cái chết của thượng hoàng, bị lương tâm cắn rứt ngày đêm, vua sinh ra mất ngủ. Thần kinh của vua suy nhược; vua hay mất bình tĩnh và thường nằm mơ thấy những ác mộng, tỉnh dậy mồ hôi tháo chạy dầm dìa. Y sĩ đã đến chữa trị cho vua gần nửa năm nay, nhưng tâm bệnh của vua vẫn còn là nguồn gốc của nhiều biến chứng khác.

Vua đã vời những vị đạo sĩ thuộc các giáo phái tới để tham vấn và chữa trị tâm bệnh cho vua, nhưng không có vị nào đã giúp được gì. Những vị này thuộc về các giáo phái Makkali Gosala, Ajita Kosakambali, Pakudha Kaccayana, Nigantha Nataputta và cả Sanjaya Belatthiputa nữa. Vị nào cũng muốn làm vừa lòng vua để giáo phái mình được thừa hưởng ân huệ nhưng không vị nào thành công.

Có một hôm, vua vời thái hậu vào ăn cơm chung với hoàng hậu và thái tử Udayibhadda. Thái tử Udayibhadda chưa đầy ba tuổi, nhưng tính tình đã khó khăn và không điềm đạm chút nào. Vua thương yêu thái tử rất mực, thái tử đòi gì được nấy. Hôm đó thái tử đòi đem con chó vào bàn ăn chung, Đây là một điều cấm kỵ, nhưng vì chiều con, vua đã cho phép thái tử đem chó vào. Trong bữa ăn, hơi ngượng với thái hậu, vua nói:

- Đem chó vào bàn ăn thật không dễ chịu tí nào.

Thái hậu nói:

- Con thương con của con, cho nên con để nó đem chó vào ngồi chung, điều này có gì là lạ. Con nhớ ngày xưa cha con vì thương con mà mà hút máu mủ trong tay của con không?

- Con không nhớ, xin thái hậu kể lại cho con nghe.

- Một hôm, ngón tay trỏ của con bị đau và sưng vù lên. Một cái nhọt đã mọc ngay dưới móng tay, làm nhức nhối khiến con khóc suốt ngày đêm. Không có đêm nào con ngủ được, cha và mẹ của con cũng không tài nào nhắm mắt. Cha con ẵm con để lên đầu gối, ngậm ngón tay đau của con trong miệng để chuyền hơi ấm qua, một mặt để con đỡ đau, một mặt để cái nhọt nhờ sức ấm mà cương mủ sớm. Như thế trong suốt bốn ngày đêm, khi cái nhọt đã cương mủ, và mủ đã chín, cha con mới bắt đầu mút cho mủ thoát ra khỏi ngón tay. Nhờ vậy mà con lành bệnh, cha con mút hết mủ và máu độc rồi, nhưng không dám rút tay con ra sợ con bị rát. Cha con cứ giữ mủ và máu trong miệng như thế cho đến khi không chịu nổi thì cha con nuốt máu và mủ cho con đỡ rát. Mẹ nói như vậy để con biết ngày xưa cha con thương con như thế nào. Bây giờ con thương của con, cho nó đem chó vào bàn ăn, điều đó mẹ hiểu, mẹ có trách gì con đâu.

Nghe thái hậu kể, vua ôm đầu chạy vào cung, bỏ cả bữa ăn. Từ đó tâm bệnh càng ngày càng nặng.

Jivata tới chữa trị cho vua, nghe vua kể đủ mọi thứ chuyện, kể cả chuyện tham vấn với các vị Bà la mônđạo sĩ, nhưng Jivaka vẫn không nói gì. Vua hỏi:

- Jivaka, tại sao anh không nói gì hết?

Jivaka tâu:

- Tôi chỉ muốn nói với bệ hạ một điều mà thôi, tôi nghĩ chỉ có sa môn Gotama mới giúp được bệ hạ cởi bỏ được những khổ đau ẩn ức trong tâm. Bệ hạ nên tìm tới Bụt để được người chỉ dạy.

Vua im lặng, một lát sau, vua nói:

- Trẫm sợ sa môn Gotama còn thù ghét trẫm.

- Bệ hạ đừng nói thế, sa môn Gotama không hề thù ghét ai cả, Bụt là thầy của thượng hoàng, và cũng là người bạn thân thiết nhất của thượng hoàng, bệ hạ tới vớí Bụt thì cũng như tới với thượng hoàng vậy. Bệ hạ tới với Bụt để tìm lại sự an ổn trong tâm hồn và cũng là để hàn gắn lại những gì đã đổ võ trong quá khứ, tài y khoa của tôi không bằng được một phần triệu tài chữa trị của Bụt, Bụt không phải là một ông thầy thuốc mà là vua của những ông thầy thuốc. Có người đã gọi Bụt là y vương.

Sau cuộc đàm đạo đó, vua đã chấp nhận việc đi thăm Bụt.

Y sĩ Jivaka xin Bụt nghỉ ngơi trên núi ít tháng và đi thăm hỏi các trung tâm tu học trong vùng. Y sĩ mong ước sẽ được thỉnh Bụt về vườn Xoài an trú một tháng trong mùa nóng.

Chính trong vườn Xoài của ông mà y sĩ Jivaka đã sắp đặt cuộc gặp gỡ giữa vua và Bụt. Lần đầu vua ngự giá tới Bụt là vào một đêm trăng. Vua cùng đi với hoàng gia và các cung phi mỹ nữ, có quân lính đi hộ tống. Đi gần tới chỗ Bụt, bỗng nhiên vua phát ra sợ hãi, tóc gáy dựng ngược, vua cảm thấy cảnh tượng an tĩnh quá, Jivaka đã nói Bụt ở chung với gần một ngàn vị khất sĩ, vậy mà tại sao khung cảnh quá im lặng như thế này? Vua sợ bị người ta lừa vua tới để đánh úp. Vua hỏi Jivaka có phải là y sĩ đang lừa vua đi vào chỗ hiểm địa của kẻ thù không? Jivaka cười ngất. Ông chỉ cho vua một ngôi nhà có cửa sổ tròn, từ đó có ánh sáng phát ra. Ông nói: Bụt hiện đang ngồi trong giảng đường với các vị khất sĩ.

Vua xuống voi, đi với Jivaka và những người hộ vệ, đuốc thắp sáng trưng, vào tới cổng giảng đường, Jivaka chỉ cho vua thấy một người đang ngồi trên pháp tòa, dựa lưng vào cột nhà chính giữa, trước mặt tòa các vị khất sĩ đang trang nghiêm ngồi. Jivaka nói: Bụt là người ngồi chính giữa đó.

Vua rất làm cảm phục. Gần một ngàn người ngồi mà im lặng không có một tiếng động nào, cảnh tượng trang nghiêm quá đổi. Ngày xưa vua đã từng thấy Bụt trong cung, nhưng đã có bao giờ vua tới tu viện để gặp Bụt và nghe thuyết pháp đâu?

Bụt mời vua và hoàng gia ngồi. Thái hậu Videhi cũng có mặt đêm ấy. Vua lên tiếng hỏi Bụt:

- Trẫm chỉ được nghe Thế Tôn giảng đạomột lầnhoàng cung hồi trẫm còn nhỏ. Thế Tôn, hôm nay trẫm muốn hỏi Thế Tôn câu hỏi này: tu hành không biết có kết quả gì không mà trẫm thấy hàng ngàn, hàng chục ngàn, có khi cả hàng vạn người bỏ nhà đi tu như thế?

Bụt hỏi vua đã hỏi ai câu ấy chưa. Vua trả lời là vua đã hỏi nhiều vị chức sắc lớn trong các giáo phái, nhưng chưa có câu trả lời nào làm vua vừa ý cả, kể cả câu trả lời của đại đức Devadatta.

Bụt nói:

- Đại vương, hôm nay Như lai sẽ nói cho đại vương nghe về những hoa trái của sự tu học trong đạo pháp này, những hoa trái có thể thấy được trong hiện tại và những hoa trái sẽ hái gặt được trong tương lai. Đại vương sẽ không cần đi vào các ngõ ngách của lý luận: đại vương chỉ cần nhận xét cho tinh tường thì đã có thể thấy được những hoa trái cấy của sự tu học, rõ ràng như thấy trái xoài để trên một bàn tay.

Đại vương, ví dụ một người nọ đang làm tôi tớ cho người ta, thức khuya dậy sớm hầu hạ và làm theo mệnh lệnh của chủ, một hôm bỗng có tư tưởng như sau: chủ là người, mình cũng là người, tại sao mình phải đày đọa mình như thế này? Nghĩ như thế, người ấy từ bỏ thân phận tôi đòi, xin được xuất gia tu đạo, đi vào chánh pháp, sống theo nếp sống phạm hạnh, tinh cần, tỉnh thức, ăn ngày một bữa, tập thiền hành, thiền tọa, đi đứng trang nghiêm, trở nên một vị khất sĩuy nghi, có dung hạnh, có đạo đức. Đại vương nghĩ sao? Biết được vị khất sĩ ấy ngày xưa vốn là thân phận tôi đòi, đại vương có gọi người ấy tới và nói: “Này người kia, hãy lại đây, hãy làm nô bộc cho ta, hãy thức khuya, dậy sớm và thi hành mọi mệnh lệnh của ta” hay không?

Vua nói:

- Thế Tôn, trẫm sẽ không làm như vậy, sẽ không nói như vậy, trái lại trẫm sẽ cung kính làm lễ người ấy, mời người ấy xuống để cúng dường, và sẽ ra lệnh bảo vệ cho người ấy đúng theo luật pháp?

Bụt nói:

- Đại vương, đó là hoa trái đầu tiên mà người sa môn khất sĩ gặt hái, người ấy thoát được sự kỳ thị giai cấp, kỳ thị chủng tộc, kỳ thị giàu nghèo, và khôi phục được phẩm cách của một con người.

Vua nói:

- Hay lắm, Thế Tôn! Xin người dạy thêm.

Bụt nói:

- Đại vương, nhân phẫm tuy vậy chỉ là những hoa trái đầu. Vị khất sĩ nhờ hành trì hai trăm mươi giới mà được an trú trong một trạng thái vô ưuthanh tịnh. Những người không giữ giới có thể phạm vào các tội lỗi như giết người, trộm cắp, tà dâm, dối gạt, say sưa và tự đưa mình tới những hình phạt đớn đau về thân thể cũng như về tâm thần. Vị sa môn khất sĩ không những hành trì năm giới, không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không dối gạt, không say sưa, mà còn hành trì trên hai trăm giới khác, vì vậy vị ấy sống trong một trạng thái thật an ninh, thật nhẹ nhõm, trạng thái mà những người không giữ giới không thể nào có được. Giới luật ngăn ngừa không để cho ta rơi rớt vào lỗi lầm, đem lại cho ta một trạng thái an ninh và nhẹ nhõm. Đó là một loại hoa trái khác của sự tu học, có thể gặt hái ngay trong thời gian hiện tại.

Vua nói:

- Hay lắm! Thế Tôn, Xin người dạy tiếp cho!

Bụt nói:

- Đại vương, vị sa môn khất sĩ không có gì ngoài ra ba chiếc áo ca sa và một chiếc bình bát. Người ấy không gây thù oán, không sợ ai ban đêm tới hành thích mình. Vị ấy có thể ngủ một mình trong rừng, dưới một gốc cây, thanh thản, vô ưu, lặng lẽ. Không sợ hãi là một niềm hạnh phúc lớn. Đó là một loại hoa trái khác của sự tu học, có thể gặt hái ngay trong thời gian hiện tại.

Vua rùng mình, rồi vua nói:

- Hay lắm, Thế Tôn! Xin người dạy tiếp cho trẫm.

Bụt nói:
- Đại vương, vị sa môn khất sĩ sống đơn giản tới mức tối đa, mỗi ngày chỉ ăn một bữa, bình bát một chiếc nhưng cơm ngàn nhà, không nghĩ đến chuyện làm giàu, không chạy theo danh vọng, không tích trữ, không tom góp, sống đúng theo phép tri túc, và không chạy theo một tham vọng hay một ước muốn nào. Sự thảnh thơi là một niềm hạnh phúc lớn. Đó là cũng là một loại hoa trái của sự tu học, có thể gặt hái ngay trong giờ phút hiện tại.

Vua nói:

- Hay lắm, Thế Tôn! Kính xin người dạy tiếp cho trẫm.

Bụt nói:

- Đại vương! Nếu đại vương biết quán niệm hơi thở, biết thực tập thiền quán thì đại vương mới có được ý niệm về hạnh phúc của người tu. Hạnh phúc đó là thiền duyệt. Vị sa môn khất sĩ biết giữ gìn sáu căn của cảm giác, biết đối trị lại năm loại trở lực của tâm ý là tham dục, sân hận, hôn trầm, trạo cửnghi ngờ; trong khi sử dụng phép quán niệm hơi thở để thực tập thiền quán, vị ấy làm phát sinh những trạng thái hỷ và lạc trong thân tâm mình để nuôi dưỡng thân tâm và đi tới trên con đường ngộ đạo, những cảm giác dễ chịu do ngũ dục đem đến không thể nào bì kịp với thứ hỷ lạc do thiền định thực hiện. Hỷ và lạc này thấm nhuần thân tâm, trị lành tất cả những âu lo, sầu khổ, thất vọng, đưa người hành giả tiếp xúc với những gì mầu nhiệm nhất của thực tại. Đại vương, đây là một loại hoa trái quan trọng của sự tu học, loại hoa trái này cũng có thể gặt hái được ngay trong giờ phút hiện tại.

Vua nói:

- Hay lắm, Thế Tôn! Xin người cứ dạy tiếp cho trẫm.

Bụt nói:

- Đại vương! Vị sa môn khất sĩ nhờ an trú tinh cần trong giới luậtchánh niệm mà có định tâm, lấy định tâm ấy mà quán chiếu vạn pháp trên thế gian. Nhờ quán chiếu mà vị sa môn khất sĩ thấy được tính cách vô thườngvô ngã của vạn pháp. Nhờ thấy được tự tính vô thườngvô ngã của vạn pháp nên vị sa môn khất sĩ không bị tham đắm vào bất cứ pháp nào va không bị bất cứ pháp nào trói buộc. Vị sa môn khất sĩ nhờ đó cắt đứt được những sợi dây phiền não thường trói buộc con người, đó là những sợi dây tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiếngiới cấm thủ kiến. Cắt đứt được những sợi dây phiền não ấy rồi, vị sa môn khất sĩ đạt tới trạng thái giải thoát, thảnh thơi. Đại vương! Giải thoát là một hạnh phúc lớn một loại hoa trái lớn nhất của sự tu học. Đại vương! Trong số những vị khất sĩ ngồi ngay trong thính chúng đây, có vị đã chứng đắc được thứ hoa trái đó. Hoa trái này, đại vương, cũng có thể gặt hái được ngay trong kiếp hiện tại

Vua nói:

- Hay lắm, Thế Tôn! Xin người tiếp tục dạy dỗ cho trẫm.

Bụt nói:

- Đại vương! Vị sa môn khất sĩ nhờ quán chiếu về tự tính của vạn pháp thấy sâu vào trong tự tính ấy và biết rằng các pháp là không sinh, không diệt, không dơ, không sạch, không thêm, không bớt, không một, không nhiều, không đến, không đi. Vị sa môn khất sĩ do đó đạt được cái thấy thanh tịnh, không phân biệt, nhìn vạn pháp trong thế gian bằng con mắt tuyệt đối bình tĩnh, không sợ hãi, không lo lắng, cỡi trên sóng sinh tửđi vào cuộc đời để cứu độ cho chúng sanh, chỉ bày cho chúng sanh con đường chánh pháp để chúng sanh cũng được nếm hương vị của giải thoát, của vô ưu và của hỷ lạc. Đại vương! Được giúp đỡ người khác, được dắt dẫn người khác ra khỏi vũng lầy của tham vọng, hận thùsi mê, đó là một niềm vui lớn. Niềm vui này là một loại hoa trái rất đẹp đẽ của sự tu học, có thể thực hiện ít ra là một phần nào đó trong hiện tại và sẽ tiếp tục được thực hiện trong tương lai. Đại vương! Các vị khất sĩ trong những tiếp xúc hàng ngày với dân chúng, có nhiệm vụ hướng dẫn dân chúng đi trên con đường đạo đứcgiải thoát. Đại vương! Các vị khất sĩ tuy không làm chánh trị nhưng cũng đóng góp vào công trình xây dựng an lạcđạo đức cho xã hội. Hoa trái của sự tu học không phải là để riêng cho người sa môn tu sĩ hưởng thụ mà là gia tài của cả quốc gianhân loại.

Vua đứng dậy, chắp hai tay lại một cách cung kính, vua bạch:

- Vi diệu thay, Thế Tôn! Bằng những lời đơn giản, Thế Tôn đã soi sáng cho trẫm đã giúp trẫm thấy được giá trị chân thật của chánh pháp. Thế Tôn đã dựng lại những gì đã ngã xuống, phơi bày ra những gì đã bị che kín, chỉ đường cho những kẻ lạc hướng, đem ánh sáng rọi vào nơi tối tăm. Xin Thế Tôn nhận cho con làm đệ tử của người, cũng như ngày xưa Thế Tôn đã nhận phụ hoàng và mẫu hậu con làm đệ tử của Thế Tôn, và vua lạy xuống.

Bụt mỉm cười, chấp nhận lời thỉnh cầu của vua. Người bảo đại đức Sariputta dạy cho vua và hoàng hậu đọc ba lời quay về nương tựa. Lễ quy y xong, vua nói:

- Bây giờ trời đã khuya, chúng con xin phép Thế Tôn để trở về cung an nghỉ. Sáng mai chúng con sẽ phải có buổi chầu rất sớm.

Bụt dạy:

- Đại vương hãy làm những gì đại vương nghĩ là phải làm.

Tuy buổi gặp gỡ này giữa vua và Bụt không phải là một buổi gặp gỡ riêng tư, và Bụt giảng kinh Sa môn quả không phải chỉ để cho vua nghe mà cũng là để cho tất cả các vị khất sĩ có mặt đêm ấy, nhưng sau buổi đó, bệnh tình của đã thuyên giảm đi quá nửa. Đêm ấy vua nằm mơ thấy thượng hoàng nhìn vua mỉm cười, vua có cảm tưởng đã nối lại được một cái gì đã gãy, dựng lên được một cái gì đã ngã xuống. Buổi gặp gỡ đã làm đẹp lòng vua mà cũng làm đẹp lòng dân chúng.

Sau lần gặp gỡ đó, vua thường đến thăm Bụt mà không cần qua sự sắp đặt của y sĩ Jivaka nữa. Vua cũng không đem theo voi ngựa và binh sĩ hộ tống. Vua cũng đã trèo những bậc đá để lên núi Linh Thứu như vua Bimbisara ngày xưa. Trong những buổi gặp gỡ riêng với Bụt, vua đã có dịp thố lộ tâm tình và sám hối với Bụt về những tội lỗi của vua trong quá khứ. Bụt đối với vua ngọt ngào như đối với một đứa con của người, Bụt khuyên vua nên dùng người có đạo đức trong giới quần thần và cố vấn.

Cuối mùa an cư năm ấy, y sĩ Jivaka xin Bụt được xuất gia. Ông được Bụt ban cho pháp danh là Vimala Kondanna.





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4985)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4371)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4660)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4703)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5861)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3301)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5267)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2934)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4138)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5284)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4263)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3324)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6361)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5332)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4632)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6243)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6110)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3895)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6035)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4643)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4796)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3392)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6279)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 4947)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3545)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3475)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5670)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4245)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 5997)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5240)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3671)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3759)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3707)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3533)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5365)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 4013)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4362)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5825)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3130)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3068)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3863)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4860)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3572)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3049)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4574)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4725)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3437)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 3995)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4729)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3572)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3606)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5138)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4160)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3293)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 2997)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3040)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3116)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3113)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3476)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 4005)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant