Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 77: Sinh tửhoa đốm giữa hư không

12 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 14031)
Chương 77: Sinh tử là hoa đốm giữa hư không


Đường xưa mây trắng
theo gót chân Bụt

Thích Nhất Hạnh
Lá Bối Xuất Bản lần 2, 1992, San Jose, Cali, USA

--- o0o ---

16.

Chương 77

SINH TỬHOA ĐỐM GIỮA HƯ KHÔNG

Mùa an cư hoàn mãn, Bụt cùng Ananda đi hành hóa khắp nơi ở trong xứ Magadha. Những chốn non xanh nước Bụt đều có tới, nhưng không có nơi nào người không dừng lại để thăm viếng các trung tâm tu học để dạy dỗ và khích kệ các vị khất sĩ và nói pháp thoại cho giới của sĩ. Đại đức Ananda thường được Bụt chỉ cho thấy những cảnh tượng đẹp đẽ. Đại đức vốn ít để ý đến phong cảnhtâm trí mãi lo cho Bụt, Bụt biết như thế nên thường nhắc thầy.

Đại đức nhớ lại trong suốt gần hai mươi năm làm thị giả cho Bụt, Bụt đã chỉ cho thầy xem biết bao nhiêu là cảnh đẹp. Người hay nói: “Nhìn đi, Ananda, núi Thứu đẹp biết bao, khả ái biết bao!”, “Này Ananda, động Saptapanni đẹp quá!”, “Này Ananda, Trúc Lâm tu viện dễ thương biết bao!”. Có một lần đứng trên đồi, Bụt đã chỉ cho Ananda thấy những thửa ruộng chín vàng bao bọc những bờ cỏ xanh. Người khen cảnh ấy đẹp và bảo đại đức nên phỏng theo mô thức ấy để may áo phước điền sanghati cho các vị khất sĩ. Ananda thấy rõ rằng qua Bụt là người tu biết thưởng thức những gì hay và đẹp, nhưng không vướng mắc vào bất cứ một cái đẹp hay cái xấu nào.

Mùa mưa năm sau, Bụt về tu viện Jetavana an cư. Vua Pasenadi đi du hành mãi tới giữa mùa an cư mới về. Về tới kinh đô, biết Bụt hiện đang an cư, vua liền đến thăm Bụt.

Vua nói với là Bụt là vì tuổi đã lớn, vua không ưa ở hoài trong cung điện. Vua ưa đi đây đi đó để thấy được những cảnh đẹp của thiên nhiên. Giao công việc cho các quan đại thần, vua đi rong chơi, đem theo một đoàn tùy tùng nhỏ. Không những vua đi du ngoạn ở những nơi trong nước, vua còn đi rong chơi ở các nước ngoài, không phải với tư cách một vị quốc vương cần phải được tiếp đón quốc lễ mà với tư cách một kẻ hành hương. Vua đi dạo chơi mà cũng như để thực tập thiền hành. Bỏ ra ngoài mọi ưu tư, vua bước từng bước thanh thản và chú ý đến cảnh vật. Vua nói những cuộc du ngoạn như vậy làm ấm lòng vua.

- Thế Tôn, trẫm năm nay đã bảy mươi tám tuổi. Thế Tôn cũng vậy. Trẫm nghe nói Thế Tôn gần đây cũng ưa đi du sơn ngoạn thủy. Trẫm cũng lớn tuổi như Thế Tôn nhưng trẫm không làm được lợi gì cho ai, còn Thế Tôn, thì đi đâu cũng dạy dỗ và hướng dẫn cho mọi người tu học. Thế Tôn đến đâu là như mặt trời chiếu sáng đến đó.

Rồi vua tâm sự với Bụt về một nổi đau thầm kín của vua. Số là trong một cuộc âm mư đảo chánh xảy ra tại kinh đô bảy năm về trước, vua đã kết tội lầm vị tổng tư lẹnh quân đội hoàng gia là tướng Bandhula và đã xử tử ông. Mấy năm sau vua mới biết là mình lầm. Vu ahối hận lắm. Vua đã tìm mọi cách để phục hồi danh dự cho tướng Bandhula và đã bồi thường cho gia đình ông, vua cũng đã cất nhắc cháu của ông là tướng Karayana lên chức tổng tư lệnh quân đội hoàng gia.

Có Bụt an cư tại thủ đô, vua đến tu viện Jetavana hầu như mỗi ngày để hoặc nghe thuyết pháp hoặc tham dự vào những cuộc pháp đàm hoặc được ngồi im lặng với Bụt. Mãn mùa an cư, Bụt lại lên đường du hóa và vua cũng cùng đoàn tùy tùng của vua đi rong chơi khắp chốn, gọi là đi tuần thú.

Năm sau, cuối mùa an cư, Bụt đi lên xứ Kuru. Sau khi ở đó hai tháng, Bụt lại theo bờ sông đi xuống Kosali, về Banarasi, ghé Vesali, rồi lại đi lên miền Bắc. Một hôm nọ, đang cư trú hành đạo tại quận lỵ Medalumpa, một quận lỵ nhỏ trong vương quốc Sakya quê hương của mình, Bụt tình cờ gặp vua Pasenadi.

Lần này vua đi du hànhđem theo thái tử Vedudabha và tướng Karayana theo. Vua muốn làm vui lòng vị cận thần mà ngày xưalỗi lầm vua đã kết tội một cách oan uổng người bác của ông ta. Đang đi du sơn ngoạn thủy vua chợt nhớ Bụt, và hỏi thăm không biết Bụt hiện giờ ở đâu. Người ta cho vua biết là Bụt dang hành đạo ở quận Medalumpa, Medalumpa chỉ cách Nagaraka nơi vua đang du ngoạn chỉ chừng nửa ngày đường. Mừng quá, vua bảo Karayana thắng xe đưa vua tới thăm Bụt. Đoàn tùy tùng của vua chỉ dem theo có bốn chiếc xe. Tới Medalumpa, vua hỏi thăm, và biết được Bụt đang cư trú trong công viên quận lỵ. Xa giá của vua đậu lại ngoài cổng. Để đoàn tùy tùng ở lại bên ngoài, vua bảo tướng Karayana cùng đi với vua vào công viên. Thấy bóng các vị khất sĩ áo vàng qua lại, vua tìm tới một vị gần nhất và hỏi thăm Bụt ở đâu, vị khất sĩ chỉ cho vua một ngôi nhà ẩn dưới bóng cây bóng lá và nói:

- Tâu hoàng thượng, Bụt đang ở trong ngôi nhà đó, cửa đóng, hoàng thượng cứ thong thả đi tới đấy, rồi hoàng thượng ho lên một tiếng, và gõ hai tiếng. Thế nào đức Thế Tôn cũng mở cửa rước hoàng thượng vào.

Vua cởi thanh gươm và tháo vương miện xuống trao cho vị tướng lãnh, bảo ông ta trở lại với đoàn tùy tùng để đợi mình. Rồi vua một mình tiến về ngôi nhà nơi Bụt ở, Tới trước cửa, vua đằng hắng và ho lên một tiếng. Chưa kịp gõ cửa thì cửa đã mở. Bụt mừng rỡ khi thấy vua. Người cầm tay dắt vua vào trong nhà. Hai đại đức Ananda và Sariputta hiện có mặt để hầu chuyện với Bụt trong tịnh thất cũng đứng dậy chào vua.

Bụt mời vua ngồi trên một chiếc ghế, rồi tự mình ngồi xuống trên chiếc ghế đối diện. Hai vị đại đức đứng hầu sau lưng Bụt. Vừa ngồi xuống vua đã đứng dậy. Vua lạy xuống dưới đất và ôm hôn hai bàn chân của Bụt. Vua quỳ trong tư thế ấy thật lâu, hai tay vuốt ve bàn chân của Bụt, miệng nói:

- Thế Tôn, trẫm là Pasenadi vua nước Kosala, trẫm xin kính làm lễ Thế Tôn. Trẫm là Pasenadi vua nước Kosala, trẫm kính xin làm lễ Thế Tôn.

Bụt đỡ vua dậy. Người mời vua ngồi lại một lần nữa xuống ghế, rồi người nói:

- Đại vương, sao hôm nay đại vương lại lễ lạy cung kính quá đáng như thế? Chúng ta không phải là một đôi bạn thân thiết hay sao?

Vua nói:

- Thế Tôn, con có một vài điều mà con muốn tự miệng con nói ra để Thế Tôn nghe, con sợ không có dịp.

Bụt dịu dàng:

- Điều gì, xin đại vương cứ nói.

- Thế Tôn, con hoàn toàn tin tưởng nơi Thế Tôn, bậc toàn giác, con hoàn toàn tin tưởng nơi giáo pháp của Bụt và nơi giáo đoàn khất sĩ của người. Con đã từng thấy và gặp những tu sĩ Bà la môn và các đạo sĩ các giáo phái: họ có thể tu hành đứng đắn, có khi được mười, hai mươi, ba mươi hay bốn mươi năm, nhưng sau đó con lại thấy họ bỏ cuộc và đi vào nếp sống ngũ dục. Ở trong đạo pháp của Thế Tôn, con thấy các vị khất sĩ hầu hết đều tu phạm hạnh cho đến trọn đời.

Thế Tôn, con từng thấy vua chống đối vua chúa, tướng sĩ âm mưu chống tướng sĩ, Bà la môn chống Bà la môn, vợ cãi cọ với chồng, con cãi cọ với cha, anh cãi cọ với em, bè bạn cãi cọ với bè bạn. Ở đây con thấy các vị khất sĩ sống trong hòa kính, an vui, hợp nhau như nước với sữa. Con không thấy ở đâu có được cái thương yêu và hòa điệu như trong giáo đoàn của người.

Thế Tôn, khắp nơi con đã từng thấy giới đạodáng điệu khắc khổ, mặt mày ủ rủ, âu sầulo lắng, nhưng ở đây, các vị khất sĩ luôn luôn tỉnh táo, tươi cười, vui vẻ, thong dong và tươi mát. Thế Tôn, điều đó khiến con càng tin tưởng nơi Thế Tôngiáo pháp của người.

Thế Tôn, con là vua thuộc dòng dõi chiến sĩ: con có quyền ra lệnh chém đầu hoặc giam cầm hoặc trừng phạt bất cứ ai nếu con muốn, vậy mà khi con ngồi trong một buổi họp, thiên hạ vẫn dám cướp lời con, dù con có nói: “Quý vị không được cướp lời trẫm”, họ cũng vẫn quên và cướp lời con như thường, không đợi đến khi con phát biểu hết ý kiến. Vậy mà con thấy ở đây, trong giáo đoàn người, có khi có cả ngàn vị khất sĩ ngồi nghe Bụt nói mà con không nghe lấy một tiếng động nhỏ, dù là tiếng đắng hắng hay tiếng sột soạt của y áo, đừng nói có ai dám cướp lời Bụt. Thế Tôn, con nghĩ: Thật là mầu nhiệm, Bụt chẳng cần quyền uy, chẳng cần gươm giáo, chảng cần trừng phạt gì mà người ta kính yêu Bụt một cách tuyệt đối. Thế Tôn, điều này cũng làm cho con càng tin tưởngThế Tôn và giao pháp của người.

Thế Tôn, con đã từng thấy và nghe giới trí thứcgiới học giả lừng danh bàn bạc với nhau để soạn sẵn những câu hỏi bí hiểm có thể làm cho Bụt lúng túng, nhưng khi đến gặp Thế Tôn và nghe Thế Tôn thuyết pháp, họ cứ há miệng ra nghe để rồi tất cả đều bị Thế Tôn chinh phục, đến nổi không có cơ hội và thì giờ để hỏi những câu hỏi hóc búa của họ, những câu hỏi mà sau cuộc gặp gỡ với Thế Tôn họ thấy là ngây thơ. Thế Tôn, điều này cũng là điều làm cho con có thêm tin tưởng nơi Thế Tôngiáo pháp của người.

Thế Tôn, con nhớ là con từng có hai thợ mộc rất khéo tay tên là Isidata va Purana: họ thường làm việc trong cung điện, và con là người cung cấp lương bỗng cho họ, thế mà họ đâu có thưong kính con bằng thương kính Thế Tôn. Có lần con đem họ đi theo trong một chuyến hành tẩu phương xa, và đêm đó vì mưa gió mà cả vua cả tôi đều phải ngủ trong một chiếc lều tranh nhỏ bé. Gần suốt đêm, hai người thợ mộc của con ngồi trao đổi với nhau về giáo pháp học được của Thế Tôn và khi họ mỏi mệt, họ nằm xuống ngủ, đầu hướng về phía núi Linh Thứu và chân họ lại xoay về phía con. Thế Tôn có cho họ lương bỗng gì đâu, thế mà họ quý kính Thế Tôn hơn con nhiều lắm lắm. Thế Tôn, điều này khiến con lại càng tin tưởng nơi Thế Tôngiáo pháp của người.

Thế Tôn! Người thuộc về giai cấp vua chúa, con cũng thuộc về giai cấp vua chúa. Người năm nay đã bảy mươi chín, con năm nay cũng đã bảy mươi chín, vì vậy con nghĩ đây là cơ hội quý báu để con tỏ lòng quy kính Bụt hết mức và để con bày tỏ niềm tri kỷ giữa con và Bụt, bây giờ con xin từ tạ Bụt để con đi.

Bụt nói:

- Đại vương, đại vương hãy trân trọng giữ gìn sức khỏe. Và Bụt đứng dậy đưa tiễn vua ra cửa.

Lúc Bụt trở vào, hai đại đức Ananda và Sariputta đứng dậy chắp tay im lặng. Hai đại đức đã chứng kiến từ đầu đến cuối buổi gặp gỡ này giữa Bụt và vua, Bụt nói:

- Sariputta va Ananda! Quốc vương Pasenadi đã nói những lời chân thành nhất của quốc vương đối với Tam Bảo. Các thầy nên ghi nhớ lấy để làm vững mạnh thêm đức tin của những người hậu học.

Tháng sau, Bụt lên đường về miền Nam. Đi chừng nửa tháng, người về đến núi Linh Thứu, về tới núi Linh Thứu, Bụt nhận được hai tin buồn cùng một lúc: vua Pasenadi đã băng và đại đức Moggallana đã bị những người thuộc giáo phái lõa hình ám sát ngay tại cổng tu viện Trúc Lâm.

Quốc vương Pasenadi đã băng không không ở thủ đô Savatthi mà ở Rajagaha, trong một tình trạng không được xứng đáng lắm đối với một người như vua. Theo tin tức nhận được thì sau cuộc viếng thăm Bụt ở quận lỵ Medalumpa, vua đã trở ra với đoàn tùy tùng, nhưng khi ra tới cổng vua chỉ còn thấy có một chiếc xe và một người cung phi ở lại. Hỏi ra thì ba chiếc xe kia đã trở về Savatthi dưới sự cưỡng ép của tướng Karayana, đem theo vương miện, ấn tín và thanh gươm báu của vua. Karayana bảo thái tử Vidudabha phải trở về ngay Savatthi để lên ngôi vua, đừng để một người quá già yếu ngồi trên ngai mãi mãi. Thái tử dùng dằng chưa chịu thì Karayana dọa rằng nếu thái không chịu về làm vua, ông ta sẽ về kinh tuyên bố đảo chánh và tự xưng vương. Dưới áp lực ấy, thái tử Vidudabha đã phải vâng lệnh.

Vua quyết định đi về thành Rajagaha để cầu viện với cháu là quốc vương Ajatasattu. Suốt quãng đường dài, vua chỉ uống nước mà không ăn gì được. Về tới Rajagah thì trời đã khuya và cửa thành đã đóng; vua phải vào nghỉ đêm trong một trạm nghỉ công cộng. Đêm ấy vua lên cơn bạo bệnh và chết trong tay vị cung phi. Người cung phi này than khóc như mưa như gió cho số phận của vị hoàng đế. Sáng ngày, sau khi hay tin, vua Ajatasattu vội vã cho rước long thể vào cung và ra lệnh tổ chức một lễ quốc táng long trọng cho người bác của mình. Tang lễ hoàn mãn, vua định cử binh trị tội quốc vương Vidudabha, nhưng vua đã bị y sĩ Jivaka can gián. Jivaka nói rằng dù sao quốc vương Pasenadi cũng đã băng hà và vua mới bên nước Kosala cũng là anh em cô cậu của vua, có cử binh chinh phạt cũng không đưa đến được một giải pháp nào khác. Nghe lời Jivaka, vua đã cử sứ thần qua Savatthi để thừa nhận quốc vương mới.

Đại đức Moggallana là vị đại đệ tử thứ ba của Bụt đứng sau Kondanna và Sariputta. Đệ tử lớn của Bụt có nhiều nhưng nhiều vị đã tịch trước Bụt. Đại đức Kondanna, thủ lĩnh của năm vị khất sĩ đầu tiên được nghe Bụt thuyết pháp tại vườn Lộc Uyển đã tịch. Đại đức Uruvela Kassapa và hai người em cũng đã tịch. Ni trưởng Mahajapati cũng đã viên tịch từ lâu. Ni sư Yasodhara và đại đức Rahula cũng đã nối tiếp nhau viên tịch. Đại đức Rahula viên tịch năm đại đức được năm mươi mốt tuổi. Đại đức Moggallana là một vị đại khất sĩ có rất nhiều dũng khí. Người là kẻ phát ngôn bạo dạn và cương trực nhất của giáo đoàn khất sĩ. Khi cần phải tuyên bố lập trường của giáo đoàn hoặc của giáo pháp, đại đức bao giờ cũng nói thẳng, không khi nào chấp nhận sự thỏa hợp. Cũng vì lý do này mà trong giới ngoại đạo có nhiều kẻ thù ghét đại đức. Hôm ấy đại đức cùng ra đi với hai vị đệ tử, lên đường rất sớm. Bọn sát nhân có dự tính trước cho nên đã mai phục bên ngoài tu viện. Họ xông ra tấn công khi thấy đại đức. Họ tấn công bằng gậy gộc. Ba thầy trò tay không, không thể nào chống lại được họ, vì họ quá đông, và cũng vì họ có khí giới trong tay. Hai vị đệ tử bị đánh văng ra ngoài. Họ la lên kêu cứu, nhưng không kịp nữa, đại đức đã bị bọn bất lương hạ sát, đại đức hét lên một tiếng vang động cả rừng cây trước khi bị bọn chúng đập xuống những hèo cuối cùng. Khi các thầy trong tu viện chạy ra thì bọn sát nhân đã tẩu thoát hết. Hai vị đệ tử bị đả thương khá nặng. Khi Bụt về tới thì nhục thân của đại đức đã được trà tỳ. Tro xương của đại đức đã được thu góp trong một chiếc bình và đặt sẵn bên ngoài tịnh xá của Bụt.

Bụt hỏi thăm đại đức Sariputta, các thầy cho biếtđại đức Sariputta đã đóng cửa am thất từ ngày đại đức Moggallana bị ám sát. Ai cũng biết hai vị đại đức này thân với nhau còn hơn anh em ruột, đối với nhau luôn luôn như hình với bóng, Bụt chưa kịp nghỉ ngơi đã phải đi tìm đến am thất của Sariputta để an ủi đại đức. Đại đức Ananda đi theo người, đại đức nghĩ chắc thế nào Bụt cũng đang buồn. Không buồn sao được khi mất một lần hai vị đệ tử lớn: vua Pasenadi và đại đức Moggallana. Bụt đi an ủi đại đức Sariputta, nhưng ai sẽ an ủi Bụt? Như để trả lời câu hỏi thầm kín của đại đức Ananda, Bụt quay lại nhìn thầy rồi lên tiếng:

- Ananda, ai cũng nói thầy học nhiều và ghi nhớ nhiều về chánh pháp. Thầy không nên lấy sự học nhiều và nhớ nhiều làm đủ. Chăm sóc cho Như lailo lắng cho giáo đoàn, điều đó tuy cần thiết nhưng cũng không đủ, thì giờ còn lại có là bao lăm, thầy phải nổ lực để vượt thoát sinh tử. Thầy phải bình thản trước sinh tử, thấy sinh tử như những hoa đốm giữa hư không.

Đại đức Ananda cúi đầu, đi im lặng.

Ngày hôm sau, Bụt xuống núi, đến tu viện Trúc Lâm. Người đề nghị vị trí để xây tháp kỷ niệm đại đức Moggallana và để an trí xá lợi của đại đức này.





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1658)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1626)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1033)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1512)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1491)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1676)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1941)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1525)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1353)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1371)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1549)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1143)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1264)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1276)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1696)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1641)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3001)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1824)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1365)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1220)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1278)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1408)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1322)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1920)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1682)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1891)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1822)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2391)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1785)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2128)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2204)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2302)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1854)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1977)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2031)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1957)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2595)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1947)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1885)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1944)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1897)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2167)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2301)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1981)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2087)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1886)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1904)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2410)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2322)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3996)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2481)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3197)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2471)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2046)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1797)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3305)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2345)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3029)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2701)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant