Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

1. Dẫn nhập: Quán Chiếu Từ các Lời Dạy của Đức Thích-ca Mâu-ni

12 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10494)
1. Dẫn nhập: Quán Chiếu Từ các Lời Dạy của Đức Thích-ca Mâu-ni

ỨNG DỤNG CÁC NGUYÊN LÝ PHẬT GIÁO
VÀO NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN TRONG KHOA HỌC

Làng Đậu

Quán Chiếu Từ các Lời Dạy của Đức Thích-ca Mâu-ni

1. Dẫn nhập

Có lẽ cách tiếp cận trực tiếp nhất là vào đề với lời dạy của đức Phật

"Này các tỳ-kheo! Cũng như người khôn ngoan chỉ chấp nhận vàng sau khi đã thử nghiệm bằng cách nung nóng, cắt gọt, và nén dập nó, những lời của ta cũng vậy, chỉ được chấp nhận sau khi đã kiểm tra chúng, chứ không phải do sự tôn kính (đối với ta).1

Như vậy, rõ ràng có một sự tương đồng giữa việc học tập hay nghiên cứu khoa học và việc tu học trong Phật giáoThái độ đúng đắn trước tiên nên có ở đây phải bắt đầu từ sự rà soát, kiểm tra lại mức hợp lý của các nhận định -- không phải tiếp nhận nó với một tư thế "tín tâm hoàn toàn". Như vậy, "giáo điều" không phải là điều được tiếp nhận trong Phật giáo.

Mọi lý thuyết khoa học ngày nay từ toán học cho đến tâm lý học và y học, đều phải dựa trên những nền tảng rất cơ bản hợp lý được nhiều người chấp nhận rộng rãi. Cũng vậy, việc giảng dạy của nguyên lý quan trọng nhất mà đức Phật truyền lại đó là nguyên lý "Tứ Diệu Đế"2 cũng dựa trên những tiền đề cơ bản đó là luật vô thường và thuyết duyên khởi.

Một cách rất sơ lược, thì luật vô thường cho rằng vạn vật (kể cả thế giới tâm lývật chất) đều chuyển biến không ngừng nghĩ hể có sinh thì có diệt. Điều này thì rõ ràng không ai có thể chối cãi trong thế giới vật lý từ vi mô cho đến vĩ mô. Nó được mặc nhiên thừa nhận trong mọi lý thuyết khoa học.

Tiếp đến là thuyết duyên khởi.

Nội dung đơn giản đầu tiên trong thuyết duyên khởi (pratītyasamutpāda) là: sự có mặt của tất cả mọi sự việc và hiện tượng trong vũ trụ đều đều chỉ là kết quả của sự tương tác và hợp thành giữa nhiều nguyên do (nhân) và điều kiện (duyên). Ở đây, cho đến nay tiền đề này vẩn nghiễm nhiên được chấp nhậnsử dụng rộng rãi trong mọi ngành khoa học. 

Hệ quả, trực tiếp của nội dung trên là việc phủ nhận các hiện tượng hay sự việc tự nó tồn tại, hay tự nó sinh ra hay được tạo thành một cách độc lập hay cô lập hoàn toàn mà không phụ thuộc vào các nguyên nhân hay điều kiện khác. Như vậy điều này gián tiếp phủ nhận sự tồn tại của một đấng sáng thế có mặt mà không có nguyên do.

Hệ quả thứ nhì thấy được từ kết luận trên là dòng sinh diệt liên tục (continuum) của mọi sự vật hiện tượng đều không thể có sự khởi đầu và không thể có sự kết thúc. Như vậy nếu, một lý thuyết nào đó cho rằng có đúng một sự khởi đầu (như là sự khởi đầu của vũ trụ) thì chắc chắn thuyết đó mâu thuẫn với Phật họcVậy thì ta sẽ so sánh sánh thế nào với một với lý thuyết cho rằng toàn thể vũ trụ khởi sinh từ một vụ nổ lớn ? Tức là cái có sinh diệt bắt đầu từ ... không có gì hết ở thời điểm gốc 0. Tuy nhiên, đến nay chưa ai có thể kiểm định được "thời điểm tự khởi" của của vũ trụ theo các lý thuyết kiểu này. Ngược lại, nếu chấp nhận có thể có nhiều hơn một vụ nổ lớn (tức là có thời điểm trước khi vũ trụ này hình thành) như nhiều lý thuyết vật lý hiện nay đang phát triển thì tình hình khác hẳn, điều này sẽ không còn có mâu thuẫn với Phật giáo.3

blank 

 

Mô hình cấu trúc vũ trụ theo lý thuyết M với 11 chiều (trái) và Mô hình vũ trụ bong bóng (phải). Mỗi vũ trụ được mô tả tựa như một "bong bóng" trong bể nước sôi. Nhiều vũ trụ có thể đồng thời hình thành, một số bị sụp đổ, số khác trương nở và hình thành các tinh hà, ngôi sao ... như vũ trụ mà ta đang có (Ảnh: Đại học Cambridge).8 Các mô hình này không mâu thuẫn với Phật giáo.

Một bước tiếp, khi áp dụng lập luận của thuyết duyên khởi và luật vô thường ở mức độ vi tế của vật chất thì mọi sự vật và hiện tượng thay đổi liên tục trong từng đơn vị nhỏ nhất của thời gian. Điều này, cho đến nay không hề mâu thuẫn gì với lý thuyết vật lý ở mức vi mô. Tiếp đó, theo định nghĩa về tính không của đại sư Long thọ:4

Sự vật nào có nguồn gốc phụ thuộc, tôi gọi là không

Với định nghĩa về tính không này cùng với tính chất thay đổi liên tục của vật chất trong mức vi tế trong từng thời điểm cho thấy rằng người ta không thể xác định được "đối tượng tĩnh thực sự" của nhận thức (hay còn gọi là sự thiếu vắng của đối tượng nhận thức). Sự thiếu vắng này rất tương tự với "nguyên lý bất định" đã được phát biểu bởi nhà vật lý Werner K. Heisenberg (1901-1976 -- Nobel Vật lý 1932, người được xem là một trong những cha đẻ của Vật lý Lượng tử) .

Như vậy với vài điểm cứu xét trên, ta có thể thấy rằng cùng với các lập luận chặt chẽ và thiền địnhPhật giáo "tìm ra" được nhiều đặc tính của thế giới vật chất mà không cần đến các dụng cụ đo đạc. Đây cũng chỉ chỉ là những kết luận rất "bề mặt" có thể xem như là các "ứng dụng" sơ khởi từ các giáo Pháp của đạo Phật.

Xét sâu hơn một tí về mặt lập luận, đức Phật còn đưa ra nhiều nguyên lý khác. Để minh hoạ, xin trình ra đây vài nguyên lý lớn và xem nó như là công cụ hay phương pháp để tìm hiểu phán đoán sự việc (Ở đây là giáo Pháp)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4996)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 4384)
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ .
(Xem: 4671)
Trí tuệ là sự thấu hiểu, là kiến thức liên quan đến tư tưởng đạo đức giúp ta đi sâu vào đặc điểm và biểu hiện của các đạ o lộ thông qua sự nỗ lực tinh tấn.
(Xem: 4710)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau, nhưng...
(Xem: 5875)
Có một chuyện rất khoa học, tôi không bắt quý vị phải nhắm mắt tin Phật nhưng tôi cho quý vị một gợi ý.
(Xem: 3310)
Đối với một người đã giác ngộ, sẽ không còn thấy nữ tính và nam tính nữa. Với một số vị thường quán bạch cốt, sẽ thấy thân mình và người chỉ là một nhóm xương khô đang đi đứng nằm ngồi.
(Xem: 5279)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn
(Xem: 2945)
Hạnh phúctrạng thái cảm xúc khi ta thỏa mãn được nhu cầu nào đó của bản thân. Hạnh phúc khi được nhận. Có một loại hạnh phúc khác mà cảm xúc mang đến cho bạn nhiều hơn nữa: Đó là hạnh phúc từ sự cho đi.
(Xem: 4158)
Kỳ thực, trên đời này không ai có thể khiến chúng ta đau khổ ngoài chính bản thân mình, và cũng không ai có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta ngoài bản thân mình ra…
(Xem: 5298)
Bài kinh "Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước" là bài kinh ngắn, trích trong Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba, phẩm Kusinàra.
(Xem: 4276)
Đã gần vào Hạ mà đức Thế Tôn vẫn chưa khuyên giải được mâu thuẫn giữa hai nhóm Tỳ-kheo đều là đệ tử của Ngài.
(Xem: 3333)
Cuộc sống giản đơn sẽ tháo bỏ cho chúng ta những gông cùm trách nhiệm do chính chúng ta tự đeo vào cổ, giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn để sống với những người thân yêu.
(Xem: 6367)
Bài kinh "Thanh Tịnh" là bài kinh ngắn, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-kheo khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 5355)
Sa-môn (Samana), Tỳ-kheo (Bhikkhu) hay Bí-sô (Bhiksu) là những danh xưng chỉ cho vị tu sĩ Phật giáo.
(Xem: 4642)
Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện.
(Xem: 6257)
Trung đạo (madhyamā-pratipad) là con đường tu tập được kinh nghiệm từ chính Đức Phật.
(Xem: 6119)
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên ...
(Xem: 3906)
Chúng sinh trong cõi “Dục giới” luôn chạy theo tìm cầu để hưởng thụ năm thứ dục lạc nên gọi là ngũ dục. Ngũ dục, chính là năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(Xem: 6041)
Tứ động tâm là bốn Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo tại Ấn Độ, ghi dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đờisự nghiệp hoằng hóa của Đức Phật Thích Ca.
(Xem: 4648)
Về mặt ngôn từ, thì chữ “công đức” là được dịch nghĩa từ chữ “punna” trong tiếng Pali. Tiếng Anh dịch thành chữ “merit”.
(Xem: 4808)
Nguyên nhân của sanh tử được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
(Xem: 3399)
tại gia hay xuất gia, chúng ta đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiếng, lễ lạy
(Xem: 6296)
Uẩn, thuật ngữ Pāli là khandha (Skt: skandha) thường được dịch sang tiếng Anh là ‘aggregates’ uẩn.
(Xem: 4961)
Ba-la-mật (pāramī or pāramitā) là các pháp hành để hoàn thiện nhân cách được nói đến trong kinh điểnchú giải, nhất là phần Hạnh Tạng thuộc Tiểu Bộ kinh.
(Xem: 3556)
Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’ mà cũng không ai ‘ban’ cho cả.
(Xem: 3484)
Mọi hiện tượng và sự vật trên thế gianhoàn vũ này không bao giờ độc lậptồn tại, mà do nhân duyên hòa hợp tạo thành.
(Xem: 5692)
Quan điểm thống nhất trong kinh điển là: sát sanh vi phạm giới luật đầu tiên và chiến tranh là sai lầm ngay cả khi chiến đấu cho mục tiêu phòng thủ hay tấn công.
(Xem: 4259)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.
(Xem: 6013)
Niết-bàn là phước lạc tối thượng, một trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu. Không thể trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn bằng các giác quan mà bằng cách làm cho chúng tịch lặng.
(Xem: 5254)
Trong những bài pháp ngắn gọn, súc tích nhất để hướng dẫn tu hành khi chưa có giới bổn Patimokkha, Chư Phật đã chỉ ra con đường sống đạo,
(Xem: 3693)
Định hướng cuộc đời để đạt được mong muốn thích đángyếu tố quan trọng giúp cho ta thăng tiến trên đỉnh cao của sự giác ngộgiải thoát.
(Xem: 3774)
Hơn bao giờ hết, những bản dịch kinh điển rõ ràng dễ hiểu, được chú giải thận trọng, được thẩm định kỹ lưỡng trước khi đến tay người học Phật đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết và quan trọng.
(Xem: 3711)
Nếu đời là vô thường, sự sống có giới hạn thì phải chăng con người ta khi sống nên có một chút ý nghĩa. Bạn ước mong gì?
(Xem: 3538)
Mong ước của tôi là chúng ta sẽ có dịp đồng hành cùng nhau trên hành trình tâm linh siêu việt của bạn.
(Xem: 5370)
“Tất cả những cảm thọ mà một người nhận chịu dầu đó là lạc thọ, khổ thọ hay vô ký thọ đều là kết quả của Nghiệp quá khứ, người nào quan niệm như vậy là tà kiến”.
(Xem: 4029)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương pháp giảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau.
(Xem: 4380)
Đất Phù Nam (Funan) bao trùm cả một phần Việt Nam, Căm Bốt (Cambodia), Mã Lai (Malaysia) và Thái Lan (Thailand).
(Xem: 5833)
Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo
(Xem: 3138)
Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta. Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta.
(Xem: 3077)
Đạo từ tâm sinh. Đi học đạo là học cho ta, để nhận chân được tự tâm, để tạo nên cái phẩm giá của ta
(Xem: 3880)
Người ngu si thiếu trí tuệ biến tự ngã của mình thành kẻ thù, lại tưởng kẻ thù của mình ở bên ngoài nhưng chính mình là kẻ thù của mình đó.
(Xem: 4869)
"Nầy các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng dạy, và phân tích cho các ông nghe về con đường cao quý có tám phần. Khi ta nói, các ông hãy chú ý và lắng nghe."
(Xem: 3582)
Nếu tâm hồn biết thầm lặng kết “bạn đường” với thánh hiền tôn giáo, với các nhà hiền triết tâm linh, thì NĂNG LƯỢNG MẦU NHIỆM sẽ hiện hữu...
(Xem: 3069)
Có thể nói ngày nay, chiến tranh, hận thù, thương yêu, ghét bỏ, kỳ thị, náo động trên thế giới… đều do tà kiến mà ra.
(Xem: 4598)
Luật nhân quả có lẽ ai cũng biết và hầu như ít nhiều ai cũng tin. Tuy nhiên, để có được niềm tin không lay chuyển vào quy luật tự nhiêncông bằng ấy thì lại không dễ,
(Xem: 4749)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức
(Xem: 3464)
Không ai có thể nói trước được chuyện gì sẽ xảy ra ở ngày mai, mặc dù ngày mai mặt trời vẫn lên.
(Xem: 4007)
Nhà Phật thường nhắc đến đạo lý sống Trung Đạo. Cái gọi là Trung Đạo chính là không đi theo hướng cực đoan, quá mức.
(Xem: 4744)
Nhiều trường phái Phật Giáo ngày nay vẫn tụng Kinh Pali, ngôn ngữ của Đức Phật lịch sử.
(Xem: 3588)
Hiện nay, quý vị trẻ thường thích thể hiện mình theo nhiều cách mà mọi người vẫn thường gọi chung chung là muốn khẳng định cái tôi.
(Xem: 3614)
Sắc thanh hương vị xúc pháp cấu thành thế giới của con người chúng taduyên sanh, vô tự tánh, bất khả đắcvô sở hữu
(Xem: 5161)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 4175)
Phật giáo cho rằng, mọi việc thành bại, li hợp ở đời đều không nằm ngoài nguyên tắc "nhân duyên quả báo".
(Xem: 3302)
Buông bỏ phiền não, trước hết là để giải tỏa mọi ưu tư, khiến người ta hạnh phúc.
(Xem: 3007)
Có những nhân quảnhân tạo trong đời này nhưng quả có khi phải qua đời sau hoặc những đời sau mới trỗ.
(Xem: 3045)
Sự quán sát, quán chiếu khởi từ danh tướng - danh là hương, là vị; tướng là những tính chất đặc trưng của chúng
(Xem: 3126)
Phật tử, tôi tâm đắc phần thuyết giảng về ái ngữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
(Xem: 3122)
Ai cũng mong trong cuộc sống có rất nhiều niềm vui và thật ít nỗi buồn.
(Xem: 3492)
Con người bình thường, khỏe mạnh là một thể thống nhất hài hòa giữa hai yếu tố thân và tâm hay thể xác và tinh thần.
(Xem: 4019)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant