Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

I. Những Ý Kiến Chung

12 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9455)
I. Những Ý Kiến Chung


ỨNG DỤNG CÁC NGUYÊN LÝ PHẬT GIÁO
VÀO NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN TRONG KHOA HỌC
Bài II
Làng Đậu

I. Những Ý Kiến Chung:

Trở lại nội dung chính của bài viết. Trước tiên tác giả bài viết xin kính dâng lên Thánh đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 (His Holiness the Dalai Lama 14th.) hồ sơ xin phát minh với tựa đề "Middle Way Logical Volume"1 (tạm dịch: Trung Đạo về Ổ Logic). Lý do là phát minh này đã vận dụng lại sáng kiến về chính sách Trung Đạo của đức Đạt-lai Lạt-ma để đề xướng vào trong khoa học máy tính. Ý tưởng sáng tạo trong phát minh này không thể có được nếu không có chính sách Trung Đạo của Ngài. (Thật tiếc cho chính phủ Trung Hoa đã không thấy được hay vì vô minh cố tình không thấy ưu điểm của đường lối Trung đạo)

Bài thứ hai này có đề cập về việc sử dụng các quan điểm hay ý kiến đã được giảng huấn từ các vị phật hay đại bồ-tát. Lý do là vi các bậc đại bồ-tát đã phải trải qua thời gian rất dài rèn luyện tâm thức tập trung mãnh liệt nên khả năng nhận thức của các ngài rất đúng đắn và thấu suốt.

Về lý mà nói, thì lời dạy của các bậc giác ngộ (nếu được thấu hiểu cặn kẽ) đều là lời nói thể hiện các mức độ khác nhau về hiểu biết chân lý. Cho dù các lời dạy đó hầu hết chỉ thể hiện trong bối cảnh rèn luyện tâm, thì vì các lý do đã nêu, chân lý bao hàm bên trong các lời dạy đó sẽ rất hữu hiệu nếu nó được thấu suốt và sử dụng đúng theo luật duyên khởi (-- nói một cách nôm na về luật này là các hiện tượng sinh ra đều do sự tác động của các điều kiện chung quanh và sự chuyển hóa liên tục của chính bản thân hiện tượng đó :-).

Cách nay hơn tháng, tác giả bài này có nhận được một email từ một người chưa hề quen biết giới thiệu về việc ứng dụng của nguyên lý Tứ Diệu Đế tức là bài giảng đầu tiên của đức Phật Thích-ca vào dịp chuyển Pháp luân lần thứ I2. Bài viết đã nêu lên một điểm lý thú trong việc quán chiếu theo cách nghĩ của nguyên lý Tứ Diệu Đế để giải quyết các vấn đề, các khó khăn. Theo thiển ý thì đó là một ví dụ điển hình trong khi cũng sẽ có rất nhiều cách vận dụng một nguyên lý Phật học khác không chỉ với Tứ Diệu Đế như Duyên khởi, Bát Chánh Đạo, Thập Nhị Nhân Duyên ... Chỉ cần theo dõi quán chiếutu tập thật cẩn thậntìm cách áp dụng chẳng hạn như nguyên lý giữ chánh kiến trong Bát chánh đạo cũng đã có thể mang lại rất nhiều lợi lạc cho người nghiên cứu khoa học.

Nhưng đi đến mức cụ thể hơn, ta có đến vô vàn các lời dạy (84 ngàn pháp môn) thì câu hỏi đặt ra là biết dựa vào đâu và dựa trên nguyên tắc chọn lọc nào để dùng cho phù hợp với điều kiện khó khăn trong nghiên cứu hiện có?

Câu trả lời ở đây thật đơn giản mà cũng... không đơn giản tí nào đó là hãy để tùy duyên! Tức là tùy hoàn cảnh, tùy hiểu biết mà có nên hay không nên có dùng hay không dùng được một giáo huấn nào đó. Cũng tương tự khi giải một bài toán thi, người thí sinh phải biết tự mình liên kết, liên hệ các sự kiện của đề thi với kiến thức sẵn có một cách linh hoạt và hợp lý, từ đó mới đi đến chỗ thấy được sự khế hợp của những gì mình đã hiểu rõ và những gì mình cần vượt qua để dựa trên tri kiến đã biết mà làm.

Để có thể hoàn thành một bài thi thì thí sinh cần phải có đủ kiến thức và kỹ năng để giải quyết. Cũng vậy cho việc ứng dụng Phật giáo. Ở đây xin nhắc đến quá trình tìm đến Phật giáo, đọc và phân tích để hiểu thật rõ các giáo pháp và ngay cả cần hiểu được giáo pháp đó ở mức độ nào dành cho đối tượng nào và nó khế hợp với bối cảnh nào thì càng tốt. Bước tiếp theo có thể khó hơn là việc người đọc tự mình thực hành hay cố gắng thực hành các lời dạy đó. Việc thực hiện lời dạy là một bước rất quan trọng vì giống như trong lúc thi người học trò không thể nào đợi đến khi bước chân vào phòng thi mới lò dò mở từng cuốn sách ra mò xem đề bài này thuộc loại gì, kiến thức của nó nằm ở đâu trong cuốn sách giáo khoa nào. Một khi các hiểu biết Phật giáo đó đã phần nào "nhập tâm" thì đó là lúc có cơ may hái quả do duyên mình gieo ra. Nói cho cùng, các kiến thức Phật giáo, nếu có được áp dụng thì chúng đều cũng chỉ là các trường hợp ứng dụng đặc biệt so với việc sử dụng chúng vào đời sống hay đạo đức thường nhật. Theo như cách miêu tả thông thường trong nhà Phật thì quá trình rèn luyện này mang tên là "Văn (đọc hiểu) -Tư (tư duy) - Tu (nổ lực thực chứng). Ở đây, xin nhắc thêm một điều quan trọng: hoàn toàn giống như học sinh đi học cần có người thầy giỏi thì việc học sẽ tiến bộ nhanh trong khi nếu gặp người thầy không phù hợp hay không có khả năng chuyển giao kiến thức có thể khiến người học trò trở nên mất căn bản và có cơ tạo ra các nguy hại cho tương lai của người học trò.

Trong một bài giảng của đức Đạt-lai Lạt-ma (HHDL) có giảng về 3 phẩm chất mà một người tu học Phật giáo cần có là: khách quan, phân tích logic mạnh mẽ và tinh tấn (hứng thú và kiên quyết) trong tu họcTương tự như thế, để các nghiên cứu khoa học được thành công thì các điều kiện về khách quan về khả năng phân tích lập luận và về sự hứng thú trong công việc cũng là điều phải có.

Một điểm nữa cần nhớ là, người nghiên cứu lúc gặp khó khăn, cũng nên thử hướng tư duy của mình vào việc áp dụng các kiến thức Phật giáo vào các tình huống cụ thể ... có khi một tia sáng lóe ra từ các điều đã học trong Phật giáo.

Để minh họa, xin nêu tiếp phần thực tế áp dụng sau đây

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 56)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 139)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 165)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 219)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 149)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 201)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 182)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 221)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 236)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 316)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 557)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 421)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 434)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 529)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 717)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 766)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 790)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 797)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 693)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 678)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 683)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 791)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 812)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 907)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 674)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 582)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 679)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 801)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 685)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 690)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 787)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 810)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 793)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 837)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 864)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 851)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1040)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1578)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1023)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 920)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1173)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1085)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1081)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1228)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1507)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1938)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1053)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1315)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1061)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 915)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1040)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1076)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1495)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1235)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1253)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 991)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1147)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant