Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

II. Ứng Dụng

12 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9741)
II. Ứng Dụng

ỨNG DỤNG CÁC NGUYÊN LÝ PHẬT GIÁO

VÀO NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN TRONG KHOA HỌC Bài II
Làng Đậu

II. Ứng Dụng:

Vì người viết bài hoạt động trong lãnh vực khoa học máy tính cho nên các ứng dụng học được từ các lời giảng Phật giáo vào nghiên cứu cũng mang hơi hớm đó. Nếu người đọc tìm thấy sự khó hiểu ở đây, xin chân thành tạ lỗi vì không có các ví dụ nghiên cứu ứng dụng phổ quát hơn.

II.1. "Văn hóa xếp hàng" trong mạng máy tính -- hay -- Tự chuyển hóa ứng xử của cá nhân mình hơn là cố tìm cách biến cải ứng xử của toàn bộ môi trường:

Tìm ở đâu được mảnh da lớn có thể bao phủ toàn quả địa cầu? Ngay nơi chiếc dép da này, toàn mặt đất sẽ được bao phủ "3. Triết ý của điều này thật ra đã được dạy từ đức PhậtĐại kháicá nhân chúng ta không đủ sức để thay đổi cả thế giới môi trường nhưng chúng ta hoàn toàn có thể thay đổi tự chính mình để tạo ra được sự hài hòa phù hợp cần thiết.

Trong môi trường mạng (network) việc các mạng "giao thông" gặp tắt ách rất thường thấy trong quá khứ và cả trong hiện tại một khi thông tin cùng một lúc bị truy cập hay cùng lúc cần đến. 

Trường hợp cụ thể ở đây là vấn đề nảy sinh khi máy chủ (host/server) dùng giao thức DHCP hoạt động trên nguyên tắc tự động gán các địa chỉ IP cho các thân chủ (client). Nó đòi hỏi phải có một thời gian ngắn hạn để qua giao diện (interface) trao đổi các thông số cần thiết cũng như biết được máy thân chủ có được phép ban cấp IP (và bản thân máy chủ có sẵn nguồn IP chưa dùng đến hay không) để máy chủ có thể cấp phát số IP cho máy thân chủ cụ thể đang chờ kết nối.

Thông thường thì trên giao diện mạng, việc nối mạng như thế xảy ra ngẫu nhiênít khi gặp trở ngại. Tuy nhiên, trong môi trường hoạt động đặc biệt chẳng hạn như trong một mạng cô lập, một máy chủ dùng giao thức DHCP (điều khiển vận hành chung) được nối trực tiếp và tự động với hàng ngàn máy thân chủ giống hệt nhau (thông qua các switch). Ngay sau khisự cố (bị cúp điện) và nguồn điện đã được trở lại bình thường thì người quản lý hệ thống tự động này quyết định mở cầu giao cho máy chủ trước và tiếp đến mở cầu giao đồng loạt cho tất cả các máy thân chủ .... Sau đó, người quản lý có thể dể dàng thấy "hiện tượng" sau: có khá nhiều máy (hơn 1/3 trong tổng số) không thể nhận về được địa chỉ IP cho mình mặc dù máy chủ có khả năng cung cấp 100% số IP mỗi số cho một thân chủ một cách tự động. Số lượng máy thân chủ không có được IP "đành" phải được cho tái khởi động (reboot) bằng tay và kiểm lại địa chỉ IP. Việc làm như thế rất tốn thì giờ và buộc phải thân hành đến từng máy địa phương (không thể điều khiển từ xa vì ... chưa có kết nối mạng lên máy thân chủ để mà điều khiển)

Sau khi phân tích thì vấn đề này có thể thấy nó gần tương tự như chuyện trên 1 đoạn đường của 1 thành phố, ở giờ "Cao điểm" tất cả các xe trong các căn hộ thuộc đoạn đường này đều "xuống đường" cùng lúc ... mỗi chiếc xe đều đòi phải có 1 khoảng đủ rộng để phóng ... đến nơi mình muốn. Việc xảy ra đụng chạm cọ quẹt và tăng thêm trở ngại là việc tránh không khỏi. Do đó, nạn kẹt xe (tắt đường) là tất yếu.

 

 

blank" Phố phường chật hẹp, người đông đúc
Bồng bế nhau lên nó ở non ..."
(Tú Xương)

blank"Mặc kệ đâu nhốn nháo - Ở đây ta xếp hàng -
Người trước người sau - Chúng ta nối đua nhau
→ Mua thịt" (Chế Lan Viên)

 

Ở đây, tình huống "thấy được" là việc vận tốc cung ứng các địa chỉ IP (môi trường sẵn có) là có giới hạn. Người ta có thể nghĩ đến chuện tăng cường khả năng của máy chủ (thay đổi môi trường cung ứng điều kiện làm việc của mạng) bằng các tăng các đường nối mạng, tặng vận tốc của bộ điều hợp mạng của máy chủ và các thân chủ (NIC/network controller) lên mức tối đa ... Tuy nhiên, các giải pháp này vừa tốn kém nhưng vẩn không thể giải quyết được hoàn toàn vấn đề. Mấu chốt cơ bản là "ta không thể nào mua đủ da để bọc hết gai trên trái đất này"! Khó lòng tăng cường được lượng mưa trong năm để dùng cho tưới tiêu các vùng ít lưu lượng mưa... mà cách dể hơn vẩn là ... thay đổi các giống cây trồng phù hợp với thổ nhưỡng và khí hậu. Như vậy, giải pháp chính là hướng đến số lớn các máy thân chủ (thuộc về cá nhân) để điều chỉnh cho phù hợp hơn là thay đổi toàn bộ điều kiện sằn có của mạng kết nối. 

Giờ hãy thử nghĩ nếu tất cả các thân chủ đều không ai giành nhau xin địa chỉ IP trong cùng lúc (và thay vào là có một dạng "xếp hàng" ngẫu nhiên nào đó) thì có lẽ vấn đề sẽ dể hơn. Tuy nhiên, khi người quản lý bật cầu giao thì tất đều khởi động cùng lượt .... các máy thân chủ, vốn có cùng một kiểu cấu hình và dùng cùng một thuật toán khởi động, đều không thể có bất kì liên hệ nào với các thân chủ khác để tự biết thứ tự của mình mà "xếp hàng (việc các máy tính biết được được sự có mặt của các thân chủ khác trên mạng chỉ có thể xảy ra ... sau khi các thân chủ mỗi máy đã có một địa chỉ IP cho mình --> vòng lẩn quẩn). Tuy nhiên, các thân chủ vẩn có thể tự mình thay đổi thời gian "giành giật" bằng cách xin đăng ký số IP ở thời điểm nào khác hơn là vào lúc "cao điểm". Vì các thân chủ đều rất giống nhau về mặt vật lý trừ một đặc điểm nhỏ, đó là mỗi bộ điều hợp nối mạng của mỗi máy thân chủ có duy nhất một địa chỉ MAC phân biệt

Như vậy, nếu dùng địa chỉ MAC này để làm nhân cho việc thay đổi từng cá nhân máy thân chủ: Đặt số MAC riêng biệt của mỗi máy này làm nhân cho một hàm số ngẫu nhiên để tạo một thời gian vài giây (X). Máy thân chủ khi khởi động sẽ tự động ra lệnh cho mình đợi (delay) một số X giây ngẫu nhiên này trước khi gửi gói dữ liệu (data package) đến máy chủ để xin đăng ký IP (con số X delay này được xác định tùy theo lượng thân chủ và khả năng thực tế của hệ thống mạng, có thể tăng đến vài phút cho delay time)

Lý dovấn đề được hoàn toàn giải quyết là vì theo phân bố ngẫu nhiên thì .... số lượng máy thân chủ trung bình yêu cầu nhận địa chỉ IP trên một đơn vị thời gian thay vì là hàng ngàn máy trong cùng lúc nay được "giản" ra trong một khoản thời gian đủ lớn. Các thân chủ do có thời gian "chờ đợi" tự động một cách đồng đều ngẫu nhiên nên chỉ có tối đa (theo luật ngẫu nhiên bình đẳng) một lượng nào đó yêu cầu các địa chỉ IP lên máy chủ qua mạng kết nối. Do đó máy chủ có đủ thì giờ đáp ứng cho số này đồng thời lưu lượng trung bình các gói dữ liệu có mặt trên mạng cũng giảm đi nhiều chục/trăm lần và do đó tránh được các va chạm (data collision) làm mất dữ liệu thông tin mạng.

II.2. "Trông Mặt mà Bắt Hình Dong" -- Các nguyên nhânphụ thuộc vào hậu quả không?

Theo nguyên lý duyên khởi (pratītyasamutpāda)4đức Phật đã dạy, thì mọi vật hiện hữu đều phụ thuộc vào các nhân (nguyên nhân) và duyên (điều kiện) tạo ra. Ở đây tạm không bàn sâu vào tính sinh diệt liên tục của vạn vật trên đơn vị ngắn nhất của thời gian mà chỉ đào bới một khía cạnh nhỏ về đặc tính phụ thuộc của lời dạy này. Chúng ta có thể hiểu đặc tính phụ thuộc theo 3 mức độ:

  • Mọi vật sinh ra đều là kết quả của sự tương tác bởi nhiều nguyên nhânđiều kiện.
  • Các yếu tố cấu thành của một sự vật/hiện tượng và toàn thể sự vật/hiện tượng đó phụ thuộc vào nhau
  • Tất cả sự vật và hiện tượng chỉ hiện hữu như là kết quả sự kết hợp đồng thời của tất cả những yếu tố cấu thành. Khi phân tích sự vật trong nhận thức bằng cách chia chẻ chúng thành từng yếu tố cấu thành, thì bất cứ sự vật nào cũng đều hình thành với sự phụ thuộc hoàn toàn vào các yếu tố khác. Và cho đến cùng thì tất cả đều tùy thuộc vào cách định danh (tức là cách đưa ra khái niệm, cách hiểu, đặt tên, mô tả, ... vv về một sự vật)

Thật ra, nguyên lý này đã được vận dụng trong khoa học rất nhiều từ việc chẩn bệnh trong Y học người bác sĩ cần nhận thấy các triệu chứng cũng như kết quả các phép thử (máu, nước tiểu, ...) mà đoán ra căn bệnh có khi là chắc chắn có khi chỉ ... là đoán. Trong khoa học giảo nghiệm, truy tầm tội phạm cũng thế, người ta dựa trên những bằng chứng hiện có để suy luận các nguyên nhân hay các nguồn dẫn. ... Cũng thế, trong khoa học máy tính, người phát triển mã nguồn có thể dùng các phép suy luận logic (dựa trên cơ sở trạng thái (state machine) và các thuật toán để tìm ra các sai sót. Trong quang học, hay vật lý thiên văn người ta cũng có thế dựa trên các quan sát phổ sóng ánh sáng, để đoán ra vật thể được quan sát có chứa nguyên tố gì. Vận dụng nhân quả theo cách này thì không có gì mới mẻ.

Vậy nhưng ở đây, xin ghi rõ đến cách nhìn có khác hơn của Phật giáo về tính phụ thuộc: Ai cũng nhận ra rằng hậu quả luôn luôn phụ thuộc vào các nguyên nhân và các điều kiện. Thế nhưng đạo Phật lại còn đi xa hơn nữa, một cách khách quan, nếu tạm thời không truy cứu đến phạm trù thời gian trôi chảy trong mối quan hệ nhân quả này thì rõ ràng về mặt tương ứng: mỗi phổ các hậu quả riêng biệt chỉ có thể tương ứng với một phổ của các nguyên nhân và phổ của các duyên (điều kiện mội trường) đặc thù. Hậu quả khác đòi hỏi tổ hợp nhân duyên khác, và do đó, từ cách nhìn này thì Phật giáo cho rằng nguyên nhân cũng phụ thuộc vào hậu quả5Dựa trên quan điểm đó, nếu người nghiên cứu nắm được một cách chính xác đầy đủ về trạng thái và ứng xử hiện có (bao hàm cả trong đó sự tương tác với môi trường tạo duyên) của một đối tượng thì hoàn toàn có thể suy ngược một cách chính xác đến các nguyên nhân khiến cho đối tượng nghiên cứutrạng thái ứng xử hiện tại. Một ứng dụng nhỏ của việc tương tác nhân quả trên các phát triển phần mềm là có thể khích khởi (inject) lên ngỏ nhập của chương trình các tham số, với điều kiện vật lý đặc biệt và thu lại toàn bộ kết quả hay ứng sử của chương trình. Một khi biết rõ các liên hệ khả dĩ giữa điều kiện đưa thêm, nguyên nhân, và hậu quả đang có cùng với môi trường hiện tại thì có thể "thấu suốt được" các nguyên nhân vốn khó nắm bắt này một cách tường minh hơn. 

blank

Tuy nhiên, ở đây người áp dụng cũng nên biết rõ là Phật giáo phân biệt 3 hạng dữ kiện: Một là hạng dữ kiện có thể trực tiếp nhận thức và không cần thêm bất kì biện pháp nào. Hai là hạng dữ kiện có mặt nhưng đòi hỏi phải suy luận chặt chẽ hay phải có những "công cụ" gián tiếp để phát hiện. Ba là, hạng dữ kiện hoàn toàn ẩn kín; loại này không cho phép người nghiên cứu thấy, suy luận hay dùng công cụ để chỉ rõ được. Tuy nhiên, trong dòng duyên khởi (tức là dòng chuyển biến tương tác liên tục của các hiện tượng đang được nghiên cứu) thì các dữ kiện bất kể thuộc hạng nào cũng vẩn có các tương tác lẫn nhau. Do đó các sự kiện có khả năng nắm bắt được vẩn có thể còn chịu ảnh hưởng của các sự kiện không nắm bắt được (và ngươc lại -- đây cũng là các yếu tố tạo khó khăn trong nghiên cứu). -- Trong nghiên cứu nếu có thể, hãy tìm cách "thay đổi tình hình" bằng việc "kích thích" ngõ vào một cách chọn lọc để khiến chúng tạo duyên cho sự loại trừ hoàn toàn hay ít nhất giảm thiểu tối đa ở mức có thể của các dữ kiện hạng thứ ba trong kết quả -- qua đó người nghiên cứu có thể kiểm soát và thấu hiểu được tình hình, nguyên do, hay bản chất của đối tượng đang được nghiên cứu.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1614)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1611)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1007)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1479)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1462)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1637)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1907)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1486)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1325)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1344)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1514)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1117)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1241)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1244)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1673)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1621)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2912)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1797)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1353)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1206)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1264)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1378)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1297)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1896)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1646)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1862)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1793)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2366)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1772)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2099)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2164)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2280)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1827)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1948)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 1999)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1916)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2564)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1915)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1850)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1921)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1866)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2130)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2266)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1944)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2048)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1833)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1882)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2387)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2300)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3912)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2451)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3153)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2441)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2028)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1780)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3284)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2324)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 2999)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2675)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant