Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

III. Trung Đạo - Một chìa khóa của Phát minh

12 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9445)
III. Trung Đạo - Một chìa khóa của Phát minh

ỨNG DỤNG CÁC NGUYÊN LÝ PHẬT GIÁO
VÀO NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN TRONG KHOA HỌC
Bài II
Làng Đậu

III. Trung Đạo -- Một chìa khóa của Phát minh

Tùy theo các trường phái khác nhau trong Phật giáo, thì khái niệm Trung đạo có thể được hiểu một cách có khác nhau về chi tiết. Ta có thể hiểu về Trung đạo một cách nôm na qua hình ảnh của việc lên dây đàn. "Sợi dây đàn chùng quá hay căng quá cũng không tạo được một âm thanh trong trẻo". Đứng về mặt ý thì Trung đạo là việc phủ nhận các cực đoan cố chấp vào sự tồn tại hay không tồn tại của sự vật. Việc cố chấp này nảy sinh là do thiếu hiểu biết chính xác về bản chất duyên khởi chóng vánh của sự vật (thông thường các ý tưởng cảm nhận qua các tri giác thông thường về thế giới khiến ta dể nhìn nhận sự vật tồn tại một cách bản chất hay đôi khi ngược lai phủ nhận sự tồn tại của sự vật chỉ vì dựa trên các quan sát hay lý luận không đầy đủ).

Ở đây ý tưởng "Trung Đạo" trong Phật giáo đã được đức Dalai Lama mô phỏng thành một chính sách đề nghị cho tương lai của Tây Tạng. Đó là việc ngài chủ trương kiến tạo một vùng Tây Tạng tự trị thật sự. Ý kiến này có thể đã nảy sinh từ động lực mong muốn có một sự chung sống hòa bình hạnh phúc cho cộng đồng người Tây Tạng trong khối người Hoa khổng lồ. Chính sách đó không đi theo hướng cực tả đòi hỏi giành lại một tên nước Tây Tạng độc lập mà cũng không chấp nhận xu hướng cực hữu qua việc xóa bỏ nền văn hóa Tây Tạng với bản sắc đặc trưng Phật giáo Kim Cương thừa để trở thành một loại bản sắc Hán tộc 100%. Khối ngựời Hoa rất đông đảo và mạnh mẽ về di sản vật chấtvăn hóa trong khi khối người Tạng nhỏ bé nhưng lại rất sâu sắc, đồng nhất và hài hòa về di sản tinh thầntôn giáo ...Theo phân tích của người viết bài này, sự kết hợp khéo léo không hủy hoại các đặc tính tốt đẹp lẫn nhau của hai khối này sẽ có thể mang lại lợi ích vô cùng lớn lao cho cả hai cộng đồng. Ngoài ra, còn có thể có nhiều phân tích về các khía cạnh lợi ích khác của chính sách Trung đạo nhưng việc bàn thảo về nó sẽ vượt quá đề tài khoa học của bài viết.

Chúng ta hãy trở lại một thí dụ ứng dụng của ý kiến trung đạo. Trong kiến trúc hiện nay của các máy tính cở lớn (các máy chủ -- server) thì bộ lưu trữ (storage) ngày nay có nhiều phẩm chất tiện ích, trong đó, ba điểm nổi bật là kích cỡ rất lớn của bộ lựu trữ, khả năng tái lập dữ liệu (data redundancy) do hỏng hóc và vận tốc xử lý dữ liệu cao. 3 đặc tính này có được, ngoài khả năng tính toán cực nhanh của CPU, là còn phải nhờ vào nhiều yếu tố khác trong đó có 2 thành phần phần cứng quan trọng là ổ cứng (hard drive) và bộ nhớ đệm (cache).

1. Các ổ cứng ngày nay có được khả năng tái lập dữ liệu là do cách kết cấu theo kỹ thuật RAID6 để tạo nên các ổ nhớ logic (logical drive) là một dạng sao chép dữ liệu để phòng hờ hỏng hóc. Tuy nhiên, các ổ cứng thông thường ngày nay vẩn dùng công nghệ cơ khí cho nên vận tốc truy cập dữ liệu vẩn còn rất thấp so với vận tốc xử lý của CPU.

2. Để khắc phục phần nào sự "chênh lệch" giữa vận tốc xử lý dữ liệu và vận tốc xuất nhập (I/O -- input output) dữ liệu của các ổ logic, nhiều năm trước, người ta thiết kế ra các bộ nhớ đệm (cache)7 là một loại bộ nhớ có vận tốc lưu trữ dữ liệu rất nhanh nhằm tạm thời lưu giữ các dữ liệu trong khi các ổ logic đang bận thực thi các thao tác khác. Chính bộ nhớ đệm này đã giúp tăng được vận tốc trung bình của toàn bộ hệ thống máy tính lên đáng kể. Vì giá thành của bộ nhớ đệm này rất cao nên dung lượng của nó được trang bị trên mỗi máy tính khá khiêm nhường (từ vài trăm Mb cho đến vài Gb là tối đa; trong khi tổng dung lượng của một bộ lưu trữ ngày nay cho mỗi máy có thể lên đến trên dưới 200,000Gb hay khoảng 200Tb)

Vấn đề nảy sinh là gần đây các ổ cứng loại mới được chế tạo bằng các "memory chip" tức là các bộ nhớ điện tử (thường thấy trên các máy chụp hình số) gọi là SSD (solid state drive)8 Vận tốc của loại này nhanh hơn vận tốc của các loại ổ cứng truyền thống khoảng 10 lần nhưng so với vận tốc của bộ đệm thì SSD nhỏ hơn khoảng 12 lần. (Về giá thị trường của ba loại này cũng tương ứng như thế các bộ nhớ đệm giá khoảng gấp 10 lần SSD và, SSD giá gấp 10 lần ổ cứng thường). Đồng thời dung lượng của nó cũng chỉ khoảng 1/3 dung lượng của ổ cứng thông thường. Xem ra, nếu trang bị mới cho bộ lựu trữ hoàn toàn bằng SSD thì sẽ rất đắt tiền. Vấn đề là làm sao để nâng vận tốc lưu trữ của máy lên nhiều lần gần tương đương với máy tính được trang bị toàn bằng SSD nhưng vẩn không phải trả một giá thành cao như thế.

Nếu dựa theo tầm nhìn trung đạo thì có thể tìm cách thiết kế một hệ thống mới sao cho nó chạy với vận tốc nhanh so sánh được với vận tốc của SSD cũng như giữ nguyên các tính năng về ổ nhớ logic của nó. Dĩ nhiên, một giải pháp dể thấy là dùng SSD như là vai trò của một bộ đệm thứ cấp (level two cache) cỡ lớn. Tuy vậy nếu nhìn kỹ hơn chúng ta sẽ thấy là bộ đệm thứ cấp này dù có tốt thì cũng đã đánh mất đi một tính năng quan trọng mà các ổ cứng đều có thể được kiến trúc nên: đó là việc các ổ cứng có thể được cấu trúc để có khả năng tái lập dữ liệu trong hư hỏng (data redundancy). Như vậy việc thấy được các đặc điểm "trung đạo" của SSD thì người thiết kế có thể tạo ra một bộ đệm thứ cấp cỡ lớn nhưng lại có khả năng tái lập dữ liệu do hỏng hóc. Đồng thời một hệ thống máy tính như thế sẽ có vận tốc tăng cao gấp nhiều lần, tăng cao khả năng bảo dưỡng dữ liệu đồng thời giá cả cho kiểu máy này lại không tăng theo tỉ lệ nhỏ hơn nhiều lần. Đây cũng là mội dung liên can đến phát minh được nêu trong phần đầu của bài viết cũng như liên quan đến một world wide technical publication9 về kiến trúc một kỹ thuật lưu trữ nhằm tối ưu hóa một hệ thống máy tinh trong đó có nhiều cơ chế lưu trữ dữ liệu có các vận tốc sai biệt nhau đáng kể.

III Thay Lời Kết:

Các ứng dụng của Phật giáo vào khoa học đã được các nhà nghiên cứu quan tâm đến trong nhiều thập niên gần đây. Ngoài các chia sẻ tri kiến về vật lý như cách thức tồn tại của vật chất (vật lý vi mô -- lượng tử) và của vũ trụ (vật lý vĩ mô -- vũ trụ học) thì các ứng dụng trực tiếp được thấy đặc biệt rõ nét trong các ngành y học trị liệu, tâm lý học, và thần kinh học10. Tuy vậy, ứng dụng vào các ngành khác của khoa học thì vẩn còn hiếm hoi. Loạt bài viết này chỉ nhằm một mục tiêu nhỏ cho thấy ứng dụng của Phật giáo sẽ không chỉ dừng lại ở các ngành khoa học đã nêu mà nó có thể thâm nhập vào các vị trí khác chẳng hạn nhằm giúp người nghiên cứu vượt qua các khó khăn. Các áp dụng như vậy cũng là một bước khác để kiểm chứng sự đúng đắng của giáo thuyết nhà Phật vì chỉ có thuyết lý đúng thì mới dẫn đến các hậu quả phù hợp, tin cậyáp dụng được. Dẫu sao, truy cho đến cùng thì cho dù có mang đến phúc lợi như thế nào, mụch tiêu chính của Phật giáo vẫn là nhằm mang lại giải thoát hoàn toàn cho chúng sinhđạt đến trí tuệ viên mãn. Theo các giảng huấn Phật giáo thì không có nổ lực tu tập thực nghiệm một cách kiên trìphù hợp, thì sẽ chẳng có giải thoát chẳng có trí tuệ tối thắng.

Kính chúc an lạc
Phật tử Làng Đậu 

Xem Phần I:

ỨNG DỤNG CÁC NGUYÊN LÝ PHẬT GIÁO VÀO NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN TRONG KHOA HỌC Làng Đậu

 


Chú Thích:

  1. Middle Way Logical Volume . I D 200904599 . NhanVo et all. Patent Pending doc.
  2. Phương pháp giải quyết vấn đề và Tứ Diệu Đế  Nguyễn Cung Thông . Huệ Quang. Truy Cập 16/07/2010
  3. Bồ Tát Hạnh. Santideva. Thích Trí Siêu dịch. Chương 5. Trang Quảng Đức. Truy Cập 16/07/2010
  4. Một số chi tiết về Duyên Khởi có thể tìm thấy trong tác phẩm "Tứ Điệu Đế" của đức Đạt-lai Lạt-ma (The Four Noble Truths. Dalai Lama. Thorsons. 1998. ISBN: 0722535503 ) Phần Mở Đầu. Duyên Khởi (bản dịch Việt: http://www.hoavouu.com/D_1-2_2-57_4-3884_15-2_5-75_6-1_17-236_14-1/#nl_detail_bookmark)
  5. Theo lời của đức DLLM trong các bài giảng về "Nhập Bồ Đề Hành Luận" Truy cập tại www.dalailama.com. Xem thêm ý kiến về việc này trong bài Pratītyasamutpāda phần Madhyamaka and Pratityasamutpada . Wikipedia. Cập nhật 23 tháng 07 2010.
  6. Xem thêm về các cách thức tái lập dữ liệu khi hỏng hóc từ kỹ thuật RAID: Bài RAID Wikipedia. Cập nhật 23 tháng 07 2010.
  7. Xem thêm giải thích về chức nănghoạt động của bộ đệm: Cache. Wikipedia. Cập nhật 23 tháng 07 2010.
  8. Xem thêm: Solid-state drive Wikipedia. Cập nhật 23 tháng 07 2010.
  9. Self Optimizing for Performance -- A New Virtual Storage Device System. PD Number: 201000845. Nhan Vo et all. HP World-wide Technical Publication 2010.
Xem thêm về các nổ lực nghiên cứu ứng dụng của Phật học tại trang WEB Mind and Life: http://www.mindandlife.org/index.html

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1491)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1437)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1019)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1405)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1348)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1279)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1316)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1653)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1859)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1366)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1030)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1374)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 1919)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1420)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1506)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1334)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2767)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1318)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1354)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1654)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1608)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1561)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1408)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2575)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1562)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1556)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1352)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1375)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1556)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1488)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1388)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1353)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1463)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2134)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1494)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1441)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1551)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1782)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1467)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1332)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1611)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1348)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1640)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2310)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1411)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1894)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1621)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1695)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1564)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1890)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1616)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1380)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1667)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1515)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1484)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1292)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1225)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1270)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1500)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1603)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant