Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Phật làm phước độ đệ tử bệnh

21 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10477)
Đức Phật làm phước độ đệ tử bệnh



ĐỨC PHẬT LÀM PHƯỚC ĐỘ ĐỆ TỬ BỆNH


Thật hiếm hoi và hy hữu nhất trên đời, không phải ai cũng có duyên gặp đức Phật, nhưng gặp Phật để thấm nhuần lời dạy của Ngài và áp dụng tu tập để vượt qua khổ lụy cuộc đời mới là điều đáng quý.

Có một thầy Tỳ-kheo bị bệnh lâu ngày không thuyên giảm, thân thể lở loét, hôi hám khó chịu. Ban đầu có nhiều Tỳ-kheo khác chăm sóc, giúp đỡ, nhưng rồi ai cũng ngán ngẩm vì hôi tanh. Vì vậy, Thầy được dời ra ở một nơi cách xa Tịnh xá.

 Một hôm, đức Phật và các thầy Tỳ-kheo trên đường du hóa ngang qua, đức Phật ghé vào thăm và nhờ thầy A-nan nấu nước để đức Phật đích thân tắm rửa, mặc y áo cho thầy Tỳ-kheo bị bệnh.

Thầy Tỳ-kheo bị bệnh đang đau khổ, bỗng nhiên hôm nay được Như Lai ghé thăm lại đích thân tắm rửa, thay y khiến Thầy cảm thấy phấn khởi, an lạc không chi bằng. Thầy sung sướng như đứa con thơ nhiều năm lưu lạc gặp lại mẹ cha, thầy cảm nhận được niềm phúc lạc vô biên chưa từng có trong cuộc đời.

Nhân đó, Như Lai Thế Tôn khai thị pháp môn quán về bệnh khổ thân này không thực có: “Thân đau nhưng tâm không đau.” Sau khi nghe bài pháp của đức Phật, thầy Tỳ-kheo thực hành ngay pháp quán sát tường tận này, Ngài liền chứng quả A-la-hán và thị tịch một cách an lành, thanh thản.

Thật khác với chúng ta, có người tu tập nhiều năm, đến khi đổ bệnh không làm chủ được bản thân, đau đớn, rên xiết vô cùng, người nhà thấy vậy đau lòng khuyên niệm Phật hay thiền quán cho bớt khổ đau, nhưng người ấy không thể làm được.

Qua đó, ta mới thấy việc thực hành các pháp môn không phải là việc dễ làm. Có người còn cho rằng, bây giờ còn trẻ, ta ăn chơi, bay nhảy cho thỏa thích, đến lúc tuổi già hãy tu cũng không sao. Nên nhớ rằng, khi có phước duyên gặp Tam Bảo, mà không tinh tấn tu hành theo lời Phật dạy, lúc bệnh đến không biết cách hóa giải lại than thân, trách khổ như khát nước chờ đào giếng thì làm sao cho kịp.

Là người con Phật, chúng ta phải cố gắng tu hành lúc còn trẻ, còn mạnh khỏe, không nên chờ đến tuổi già mới tu, e đến lúc đó, thân không còn khỏe, chân đau, gối mỏi, bệnh tật tấn công, thân chịu không nỗi, lấy đâu mà tu luyện, thực hành. Người thiếu phước, không có trí tuệ, khi đối diện với tuổi già bệnh hoạn sẽ lo âu, sợ hãi, bất an, đâu có còn bình tĩnh, sáng suốt để tu hành.

Người đến tuổi già mới bắt đầu tu bị chướng ngại bởi hoàn cảnh, tật bệnh thường tủi lòng, than vản trước hình tượng Phật: “Con muốn tu mà nghiệp chướng chẳng chịu buông tha, hoàn cảnh khó khăn, thiếu tiền, thiếu gạo lại thêm bệnh hoạn làm đau lòng, nhức nhối, khó chịu, rồi xin Phật thế này, thế kia…” Nếu ai cũng chờ đến già mới tu, chờ tiền đầy túi mới làm việc phước thiện thì e rằng suốt đời người ấy sẽ không có cơ hội.

Trên thế gian này, người được giàu sang, phú quý, hiển vinh, công thành danh toại là nhờ biết tu nhân tích phước từ nhiều đời trước. Trên đời này, không có việc gì ngẫu nhiên, đương nhiên, tự nhiên mà thành. Muốn được như vậy, ta phải biết bố thí, cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ tùy theo khả năng của mình.

Nếu ta không đủ các điều kiện về vật chất để thực hành bố thí, cúng dường thì ta phát tâm hoan hỷ khi thấy người khác thực hành bố thí, cúng dường thì phần công đức của ta cũng ngang bằng với người thực hành bố thí. Trong kinh có nói: “Nhược tự tác, nhược giáo tha tác, kiến tác tùy hỷ...” nghĩa là, tự ta làm, khuyên người khác làm hoặc thấy người làm ta phát tâm hoan hỷ công đức ngang bằng nhau.

 Công hạnh cao cả không thể nghĩ bàn của Như Lai Thế Tôn như nói ở trên thật đáng để loài ngườichư thiên tôn kính, xứng đáng là bậc thầy trong ba cõi, bởi vì Ngài không từ bỏ bất cứ một việc thiện nào dù lớn hay nhỏ khi đủ nhân duyên.

Vậy bố thí, cúng dườngý nghĩa gì?

Bố thí tiếng Phạn là Dàna, có nghĩa là sự cho, còn theo từ ngữ Hán Việt bố là cùng khắp, thí là cho, nghĩa là cho cùng khắp không giới hạn. Thông thường ta chỉ bố thí cho người thân, rộng hơn nữa là cho người nghèo khổ, ít ai bố thí cho người ta đang ghét hay hận thù. Chính vì không hiểu biết tới nơi tới chốn nên ta chỉ bố thígiới hạn dẫn đến không được lợi ích nhiều, có khi còn tham lam ích kỷ nữa là khác.

Từ cúng dường là nói trại của hai chữ cung dưỡng có nghĩa là cung cấp và dưỡng nuôi. Về nội dung thì bố thí hay cúng dường chỉ là một, không có gì là sai khác. Tuy cùng chung một nghĩa cử, một hành động, nhưng người ta dùng hai từ khác nhau để phù hợp với đối tượng thọ nhận: cho với lòng hảo tâm, thương cảm thì gọi là bố thí, còn cho với lòng ngưỡng mộ, tôn kính thì gọi là cúng dường.

Thí dụ, cha mẹ là hai đấng sanh thành mang nặng đẻ đau, nuôi ta khôn lớn, lo cho ta ăn học tới nơi tới chốn, dựng vợ gã chồng, tạo cho ta gia tài sự nghiệp, ta phải có trách nhiệm cúng dường cha mẹ khi tuổi già hay lúc bệnh hoạn, ốm đau… (nghĩa là cung cấp và dưỡng nuôi cha mẹ.) Cung cấp những nhu cầu cần thiết để nuôi dưỡng cha mẹđạo lý “Uống nước nhớ nguồn; ăn trái nhớ kẻ trồng cây” trong tập quán của người Việt nam

Làm người trong trời đất ai cũng từ cha mẹ sinh ra, cha mẹ làm nên thân người, vì vậy ta phải có trách nhiệm, bổn phận hiếu thảo với mẹ cha bằng cách chăm sóc về tình cảm, tinh thầncung cấp dưỡng nuôi lúc cần.

Trong kinh Phật dạy, gặp thời không có Phật, cha mẹ là hai vị Phật, (Phụ mẫu tại đường như Phật tại thế.) Làm người chúng ta cần nhớ lời dạy quan trọng này.

Một thời, lúc Phật còn tại thế, gặp năm hạn hán mất mùa, dân chúng đói khổ, thiếu thốn, khó khăn, đức Phật cũng không ngoại lệ, một vị Tỳ-kheo thấy Phật thiếu ăn, liền đem chiếc y của mình đổi lấy bát cơm dâng lên cúng Phật.

 Phật hỏi rằng:

- Ông còn cha mẹ không?

-Bạch Phật, cha con chết rồi chỉ còn mẹ già.

Phật hỏi tiếp:

- Mẹ ông dùng cơm chưa?

- Dạ chưa.

Phật nói:

- Người xứng đáng nhận bát cơm này là mẹ ông chứ không phải Ta.

Sau đó Phật dạy tiếp:

- Người xuất gia còn cha mẹ không ai nuôi dưỡng thì người đó có quyền khất thực đem về cúng dường cha mẹ.

Ngoài việc cúng dường cha mẹ, người Phật tử còn có trách nhiệm và bổn phận cúng dường người tu hành chân chánh, có đạo đức, có nhân cách, suốt đời phục vụTam Bảo, vì lợi ích chúng sanh.

Tai sao ta phải cúng dường người tu hành chân chánh?

Cha mẹ làm nên thân ta, Thầy Tổ giúp ta biết được điều hay lẽ phải để vượt qua cạm bẫy cuộc đời, không rơi vào hố sâu tội lỗi. Vì vậy từ cúng dường được dùng đối với các bậc trưởng thượng, tôn kính như cha, mẹ, Thầy, Tổ v.v.. là những người có công nuôi dưỡng, dạy dỗ, chỉ bày, giúp ta nên người. Ngoài từ ngữ bố thí, cúng dường còn có nhiều từ ngữ khác như kính tặng, kính biếu… để nói lên lòng tôn kính của người cho. 

Từ ngữ “bố thí” được người Việt Nam sử dụng với nhiều ý nghĩa như: cho, tặng, biếu, giúp đỡ, chia sẻ…Tất cả đều mang ý nghĩa tốt đẹp của hành động cho.

Khi gặp người nghèo khổ ta thương tình giúp đỡ gọi là cho hay gọi là bố thí cũng được. Người có tâm từ bi rộng lớn không những biết bố thí, cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ cho người mà còn giúp các loài vật nữa. Đó là người biết gieo trồng phước đức đúng pháp. Người tu hành theo đạo Phật rất cần thực tập để có được tâm từ bi rộng lớn này.

Con cháu đem vật phẩm nuôi dưỡng ông bà cha mẹ thì gọi là cúng dường phẩm vật, còn ông bà cha mẹ đem của cải vật chất lo cho con cháu thì ta gọi bằng từ cho, giúp đỡ hay chia sẻ. Hoặc người dân bình thường muốn đem phẩm vật cho những người có địa vị trong xã hội thì gọi là kính biếu hay kính tặng…

Cùng một hành động “bố thí” mà tùy theo đối tượng, tùy theo hoàn cảnh, mà ta dùng từ ngữ sao cho phù hợp, để không làm mất đi sự tôn kính, lòng thương cảm của ta.

Phật tử, chúng ta phải học hiểu rõ ràng chỗ này, để dùng từ ngữ không bị sai lệch làm ảnh hưởng không tốt đến hành động bố thí của mình.

Bố thí, cúng dường là hành động làm phước thiện, theo luật nhân quả, nó là điều kiện thiết yếu để ta tiêu trừ đau khổ, chuyển hóa nghèo cùng khốn đốn, không còn sợ nghèo đóivượt qua nỗi bất an sợ hãi trong cuộc đời như mũi tên chỉ đường, để ta không bị đi lạc.

Hai từ này tuy viết khác, nói khác, nhưng nó cùng một ý nghĩa, tùy theo đối tượng của sự cho (người nhận) mà ta có cách gọi khác nhau để phù hợp, làm đẹp, làm hài lòng cả hai đối tượng cho và nhận mà thôi.

Phật dạy pháp bố thí

Giúp ta gieo trồng phước

Giúp ta bỏ tham si

Để an vui hạnh phúc.

Việc thiện dù nhỏ mà ta chịu khó làm như đức Phật đã làm thì vinh hoa phú quý sẽ đến với ta trong hiện tại và tương lai. Nhờ bố thí, mà lòng tham lam, ích kỷ của ta được giảm bớt. Nếu chất chứa lòng tham không đáy sẽ tạo cho ta nhiều tội lỗi, nuôi dưỡng lòng hiềm hận, nỗi bất an, lo sợ nhiều điều trong cuộc sống.

Để xả bỏ lòng tham lam ích kỷ, pháp bố thí được xếp hàng đầu trong Lục Độ Pháp Môn. Trong đó, theo thứ tự đức Phật dạy: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền địnhTrí tuệ. Bố là cùng khắp; Thí là cho, dâng, tặng, hiến cúng. Bố thítừ ngữ thông dụng để chỉ lòng từ bi của người thực hành.

Trong các trường hợp giúp đỡ người nghèo, người bị thiên tai, hoạn nạn, bịnh tật … ta có thể gọi là cho, tặng hay biếu… Còn con cái giúp đỡ ông bà cha mẹ thì ta dùng từ ngữ “cúng dường” (đọc trại âm của chữ cung dưỡng). Đối với người có địa vị cao trong xã hội hoặc người cao niên, lớn tuổi thì ta dùng từ “kính tặng, kính biếu…” Chung quy, tất cả đều là hành động “bố thí” được triển khai bằng nhiều từ ngữ khác nhau để sử dụng rộng rãi, phù hợp cho nhiều đối tượng mà thôi.

Từ ngữ “cúng dường” có nghĩa là cung cấp, dưỡng nuôi các bậc tôn kính như Thầy, Tổ hay ông bà, cha mẹ…những người có công truyền đạt đạo lý làm người, điều hay lẽ phải như ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng đời đời giúp ta an trụ trong chánh pháp, hiểu rõ chúng sanh trong lục đạo luân hồi đều là bà con quyến thuộc của nhau trong nhiều đời, nhiều kiếp, cho nên hành động bố thí đối với họ ta phải gọi là cúng dường.

Trong nhà Phật việc bố thí được phân làm ba loại: tài thí, pháp thívô úy thí.

-Tài thí là bố thí của cải vật chất, tiền bạc cho người.

-Pháp thí là dùng tri thức hiểu biết của mình về chánh pháp hướng dẫn mọi người về chân lý giác ngộ giải thoát trên tinh thần học hỏi và cầu tiến.

-Vô úy thí là thí không sợ hãi, bảo vệ công lý, chính nghĩa. Nhờ vào vô úy thí khiến người ta không sợ hãi bằng cách dùng lời nói hay hành động thể hiện lòng từ bi để dẹp trừ bạo loạn, khủng bố đem lại an lành cho cá nhân, gia đình hay xã hội, bên cạnh còn cổ xúy, tổ chức cho nhiều người làm việc thiện lành như đi đến những vùng bị lũ lụt, thiên tai, hạn hán, sóng thần, động đất để giúp người đỡ thiếu thốn, xa lìa sợ hãi.

Sợ hãi là dấu hiệu phản ứng tâm lý của trạng thái dao động như bất an, lo lắng, kinh hoàng, khủng hoảng xuất hiệntồn tại ở mỗi con người. Có thể nói, từ khi còn tấm bé cho đến tuổi trưởng thành, chúng ta có quá nhiều nỗi sợ hãi: sợ cô đơn, thiếu ăn, thiếu mặc, bệnh tật, mất mát, chia lìa, nhất là sợ chết và vô vàn nỗi sợ hãi khác.

Chúng ta thường sợ hãi những gì đã xảy ra trong quá khứ hoặc lo sợ điều bất hạnh sẽ đến trong tương lai. Thậm chí, có những nỗi sợ hãi không dính vào đâu hết nhưng ta vẫn cứ sợ. Do đó, “thí không sợ hãi” (vô úy thí) giúp con người đủ sức tự chủ đối diện với hoàn cảnh thực tế.

Tại sao con người thường hay sợ hãi? Nguyên nhân bắt nguồn từ đâu? Từ sự không có niềm tin nơi chính mình, không hiểu thấu nguyên lý nhân quả, nghiệp báo, sống phó thác cho số phận… tất cả đều do vô minh chi phối, tạo thành. “Thí không sợ hãi” là phương cách tốt nhất giúp con người vượt qua cơn khủng hoảng tinh thần. Có người không vượt qua nổi những cơn khủng hoảng tinh thần, vì quá sợ hãi mà dẫn đến nguy cơ tự tử.

Bồ-tát thực hành “thí không sợ hãi” giúp chúng sanh an bình trong cuộc sống, hiểu rõ thực chất cuộc đời để dễ dàng vượt qua những khổ đau, bất hạnh. Trong đạo Phật, Quán Thế Âm là vị Bồ-tát phát nguyện lớn thực hành “thí không sợ hãi” giúp người không còn sợ hãi thông qua việc nhất tâm niệm danh hiệu Ngài: “Nam Mô Đại Từ Bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ-tát.” Nơi nào có sự khổ và sợ hãi mà niệm câu danh hiệu này thì liền nơi đó có Bồ-tát Quán Thế Âm.

Muốn diệt trừ nỗi sợ hãi thực ra không phải là điều quá khó, chúng ta phải biết cách đối diện với nỗi sợ hãi để nhận diện chân tướng, mặt mũi cho rõ ràng rồi tìm nguyên nhân, gốc rễ mà có phương cách đối trị. “Bố thí không sợ hãi” là phương cách cực kỳ quan trọng để loại trừ khổ đau, sợ hãi. Nó làm cho người nghèo khó không đau khổthiếu thốn, người giàu có không lo sợ bị hao tổn, mất mát tiền tài, của cải.

Tóm lại, thực hành “bố thí không sợ hãi” (vô úy thí) là nguồn phúc lạc cung cấp cho mọi người, mọi giới, mọi thành phần, bất luận trẻ già, trai, gái, người sang, kẻ hèn, miễn là người đó phát tâm bố thí với tấm lòng chân thật, không mưu cầu, không vụ lợi ngoài việc vì lợi ích cho tha nhân.

Muốn thực hành thành công bố thí phải hội đủ ba yếu tố:

1- Người bố thí (người cho)

2- Vật bố thí ( của cho)

3- Đối tượng bố thí (người nhận)

Nó giống như cái đỉnh ba chân muốn đứng vững không thể thiếu một, vì nếu thiếu một chân thì không phải là cái đỉnh. Thực hành bố thí cũng vậy, nếu ta có vật để bố thí mà không có người nhận thì cũng không thể bố thí được. Vì vậy người bố thí cũng phải biết ơn người nhận bố thí.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12640)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12257)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11028)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10914)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13371)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11783)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13666)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11908)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11173)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12198)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12404)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20599)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12424)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12456)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11715)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11596)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22424)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13578)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29676)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11544)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16741)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12001)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16834)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12078)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17924)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12639)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13167)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14759)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22625)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10586)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14049)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13868)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13716)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13867)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13939)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14835)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13853)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18411)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22804)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15397)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17327)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22415)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14264)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12584)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11171)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17768)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13212)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13103)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18796)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17181)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13503)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12919)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14697)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14657)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15880)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13516)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27436)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
(Xem: 13229)
Muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị. Bồ Tát Giai Vị nghĩa là ngôi vị thứ bậc của Bồ Tát.
(Xem: 16730)
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
(Xem: 21391)
Tiếng Phạn sthùpa, tiếng Pàli thùpa, dịch âm là tốt đổ ba, tô thâu bà; lược dịch là tháp bà, Phật đồ, phù đồ; dịch ý là chỗ cao ráo, nơi hội tụ công đức, ngôi mộ lớn...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant