Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bà già bán cái nghèo

21 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10910)
Bà già bán cái nghèo


BÀ GIÀ BÁN CÁI NGHÈO


Nói đến sự đau khổ, bất hạnh của con người trên thế gian này thì nhiều vô số kể, ở đây chúng tôi chỉ nói đến cái khổ do nghèo. Vậy ta làm thế nào để vượt qua cảnh nghèo? Đó là điều mà ai cũng mong muốn và ước mơ.

Người ta thường đặt câu hỏi: Tại sao mình nghèo mà người khác lại giàu? Không lẽ thượng đế lại sắp đặt như thế sao? Nghèo hay giàu đều có nguyên nhân của nó, không có gì bỗng dưng, khi không mà thành. Do ta không nhận thức sáng suốt, nhận định sai lầm, rồi cho rằng con người sanh ra nghèo hay giàu đều do trời định, số định, nói như vậy là oan cho trời quá.

Bố thí là sự cảm thông chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần quý kính, tôn trọng vì tình người. Nhờ bố thí ta giảm bớt lòng tham lam, ích kỷ nhỏ nhoi và rộng mở lòng từ bi đối với mọi người.

Biết rõ gốc nghèo khổ

Từ bỏn xẻn mà ra

Muốn không khổ, oán sầu

Phải thực hành bố thí.

Nói đến bố thí, ta không nên nghĩ đến giàu có, nhiều tiền của mới thực hành bố thí. Như ở trên đã nói, bố thí có nhiều cách như bố thí tấm lòng, bố thí lời nói, bố thí sự hiểu biết, hay bố thí hành động của mình… Việc thực hành bố thí cho người thân, người thương thì dễ, còn bố thí cho người mà mình từng oán hận, căm ghét trước đây mới là khó. Chúng ta nên học tập hạnh bố thí của Bồ tát: bố thí bình đẵng, không phân biệt đối tượng nào. 

Ngày xưa, đức Phật có người đệ tử tên Ca-chiên-diên đã chứng quả A-la-hán. Trên đường du hóa, ông gặp một bà lão nghèo than vãn sự đói khổ của bà gần tám chục năm. Nghe xong, Ca-chiên-diên giải thích nguyên nhân cái nghèo của bà và bảo bà hãy bán cái nghèo đi để hết khổ. Bà lão mừng hỏi: “Cái nghèo có thể bán được sao?” Vậy, nếu có ai mua con sẽ bán. Cái nghèo mà bán được thì trên đời này không còn ai nghèo nữa; ai mà không ham bán cái nghèo đi.

Nghèo là do hậu quả của việc không biết bố thí, cúng dường lại hay trộm cướp, lường gạt của người hoặc không biết tiết kiệm, làm một xài mười, hưởng thụ quá mức. Bố thí là cách bán cái nghèo tốt nhất.

Ngài Ca-chiên-diên đã giải thích cho bà lão hiểu rằng, việc giàu nghèo đều có nguyên nhân sâu xa của nó chớ không tự dưng mà bà bị nghèo như vậy. Người nghèo hèn thời nay là do đời trước không biết bố thí, cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ với ai. Do đó, thực hành bố thí là cách bán cái nghèo tốt nhất. sau khi nghe Ngài Ca-chiên-diên giải thích, bà lão cảm thấy những nỗi buồn khổ về thân phận nghèo hèn của mình đều tan biến trong tâm tưởng. Nhưng nghĩ lại, bà cũng tủi thân vì nhìn quanh mình chẳng có cái gì để bố thí hay cúng dường.

Khi thấy tâm thành kính muốn cúng dường của bà đến cao độ, ngài Ca-chiên-diên mới nói: “Bà lấy cái chén ra ngoài mé sông múc cho tôi chén nước, chắc chắn trong tương lai bà sẽ bán được cái nghèo.

Bà lão hoan hỷ trong lòng, nhanh chân ra sông mang về một chén nước trong, thành kính dâng lên cúng dường cho ngài Ca-chiên-diên. Từ đó bà lão lúc nào cũng cảm thấy trong lòng vui vẻ, hạnh phúc. Và mấy ngày sau bà lão qua đời trong bình an, tự tại.

Do phước báu cúng dường với tâm thành kính, bà lão được sanh lên cõi trời làm một Tiên nữ đầy đủ phước báu muốn gì được nấy. Bà vận dụng thần thông trở về trần gian thăm lại cái xác thân nghèo khổ ngày nào nay đang tan rã. Bà thầm cảm ơn Phật pháp, cảm ơn ngài ca-chiên-diên đã hướng dẫn, giúp bà vượt qua kiếp nghèo khổ thế gian một cách dễ dàng.

Bây giờ được thân Tiên nữ xinh đẹp lộng lẫy, muốn gì được nấy chỉ nhờ vào công đức cúng dường cho bậc A-la-hán một chén nước sông với tất cả tấm lòng tôn kínhhoan hỷ. Nay trong cảnh Tiên, Bà lập nguyện cúng dường mãi mãi để tăng trưởng tâm tình thương, lòng hỷ xảnuôi dưỡng phước báu.

thế gian, việc bố thí, cúng dườngruộng phước cho nhân loại. Người có tâm bố thí là tập cho mình có đời sống cao thượng, an vui trong hiện tạihạnh phúc cho mai sau. Và việc thực hành bố thí, cúng dường không cần phải người giàu có, tiền dư, bạc hậu mới có thể làm được. Người nghèo khổ, khốn khó, nếu biết cách vẫn có thể thực hành bố thí, cúng dường, tích lũy phước báu thì tai qua, nạn khỏi, có cơ hội sống an vui, hạnh phúc trong đời này và hướng tới một tương lai tốt đẹp

Trong dân gian có câu:” Ai giàu ba họ, ai khó ba đời.” Không ai phải chịu nghèo hèn mãi mãi. Người biết làm việc thiện, biết bố thí, cúng dường thì cuộc sống sẽ được thay đổi, không đời này thì đời sau. “Ai khó ba đời” là vậy.

Trong kho tàng ca dao Việt nam cũng có câu: “Ai ơi ăn ở cho lành, kiếp này không gặp để dành kiếp sau.” Vì vậy chúng ta phải cố gắng làm lành, làm thiện, bố thí, cúng dường chứ đừng quan niệm rằng giàu, nghèo là do số trời đã định. Nói như vậy là không đúng, làm gì có ông trời nào xử sự bất công như thế.

Người có phước báu, đời này được giàu sang, quyền quý, nhưng nếu ta hưởng phước mà không biết thực hành bố thí, cúng dường để tích lũy thêm, đến khi hết phước làm ăn sa sút hay gặp tai họa thì cũng trở nên nghèo khổ, khốn khó. “Ai giàu ba họ” là ở chỗ này.

Tóm lại, người sanh ra phải chịu cảnh nghèo hèn, khốn khó là do hậu quả của lòng tham lam ích kỷ từ nhiều đời, nhiều kiếp và người được giàu sang là do kết quả của việc biết làm lành, làm thiện, biết giúp đỡ, chia sẻ, bố thí, cúng dường. Vì cái nhân quả khác nhau ấy, mà trong đời này, con người sinh ra đã có sự bất đồng về mọi phương diện giàu nghèo, tốt xấu, thông minh, đần độn…

Ngừời nghèo khổ dễ khởi tâm oán giận, vì sao? Bởi họ thấy mình luôn khốn khổ gian nan, đầu tắt mặt tối mà cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thiếu thốn trăm bề, vì vậy họ thường sanh tâm oán giận, căm ghét lung tung, trên trách trời, dưới trách đất, đố kỵ, ganh ghét với người tài cao đức trọng, do đó họ dễ gây ra nhiều điều tội lỗi.

Biết được điều này chúng ta sẽ không than oán, trách móc, đổ thừa tại, bị, thì là, không chịu vươn lên làm lại cuộc đời, cố gắng thay đổi đời sống.

Chúng ta phải biết gieo trồng phước đức, muốn được cái này thì phải có cái kia. Muốn có quả xoài ta phải gieo trồng hột xoài, chăm bón cây xoài, không, ta phải có tiền mới mua được trái xoài đó, nhân quả là vậy. Nhân quảgiáo lý nền tảng của đạo Phật, ta không gieo nhân mà muốn gặt quả thì không được.

Theo quan niệm của Phật giáo, giàu nghèo không phải ở nơi tiền tài, vật chất mà sự giàu nghèo đặt nặng trên nền tảng của đạo đức, tư cách và tấm lòng. Người có lòng nhân ái, sống biết thương yêu giúp đỡ mọi người, sống có phẩm chất đạo đức và nhân cách tốt thì mới đang quý, đáng trân trọng, ngược lại, người tuy có tiền của, tiện nghi mà không có được những yếu tố trên thì họ vẫn là người nghèo khổ.

Trong làm ăn, kinh tế, đức Phật dạy rằng, tài sản, của cải ta làm ra nên chia ra làm bốn phần:

- Phần thứ nhất, dùng chi tiêu trong cuộc sống hằng ngày.

- Phần thứ hai, tích lũy dự phòng cho hậu sự hoặc chi dùng khi gặp chuyện bất trắc.

- Phần thứ ba, lo việc phụng dưỡng, hiếu sự với ông, bà, cha, mẹ.

- Phần thứ tư, làm việc phước thiện, chia sẻ nỗi khổ đau với những người bất hạnh

Vậy, người nghèo thường oán giận cái gì? Oán giận ông trời bất công. Theo quan niệm của thần quyền, con người phải lệ thuộc vào ai đó. Ai theo truyền thống này sẽ oán giận ông trời, vì số phận họ là do trời sắp đặt.

Nếu có ông trời sắp đặt mọi việc như vậy, tại sao ông trời không đem phước lành đến cho con người, để cho thế gian này khổ nhiều hơn vui, người nghèo khổ, bất hạnh nhiều hơn người giàu có hạnh phúc?

Trên thì oán trời, dưới đổ thừa cho xã hội bất công, bởi khi nghèo khổ, túng quẩn, tâm trí, đầu óc thiếu minh mẫn, sáng suốt, lại không chịu suy tư cho chín chắn, nên oán trách lung tung

Có khi oán trách người thân, gặp chuyện không vui ở đâu, về nhà trút đổ nỗi buồn cho cha mẹ, cho vợ con, lỡ khi làm điều phi pháp bị bắt vào tù lại đổ thừa tại gia đình, vợ con mà tôi phải làm như vậy. Hoặc khi thất nghiệp không tìm được công ăn việc làm thì oán trách thầy bạn sao không mở lòng giúp đỡ.

Người nghèo khổ thường không biết tu tạo phước đức, bởi phải vất vả mà cũng chỉ kiếm tiền sống qua ngày, do đó đã nghèo lại càng nghèo thêm. Họ không có điều kiện hay cơ hội giúp đỡ ai, không tích lũy được phước báu, vì vậyoán hận chứa chất trong lòng mỗi ngày càng nhiều thêm.

Vì vậy, trách nhiệm của xã hội là phải quan tâm đến vấn đề của người nghèo nhiều hơn, không những giúp đỡ họ về phương diện vật chất mà còn phải chăm lo đời sống tinh thần để họ vơi đi những khổ đau nội kết chất chứa trong lòng. Tốt nhất cho việc làm này, xã hội nên kết hợp với đạo Phật giúp họ hiểu được nguyên nhân sâu xa của bất hạnh nghèo khổ.

Chúng ta có nhiều cách để tạo ra phước đức, về mặt xã hội, ta thực hiện đắp đường, xây cầu, khoan giếng, trồng cây, tạo công viên, hoa viên, lập ra các nơi khám chữa bệnh miễn phí, bệnh viện từ thiện... Còn đối với đạo Phật cần có những trách nhiệm cao hơn, ngoài việc giúp đỡ vật chất còn phải hỗ trợ tinh thần để họ phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, bế tắc cuộc đời.

Tại các chùa hay các cấp của giáo hội cần lập ra các đoàn từ thiện đi đến vùng sâu, vùng xa thăm hỏi, động viên, trợ duyên cho họ bằng những món quà vật chất với tấm lòng của ít lòng nhiều, khuyến tấn họ đến chùa tu tập, nương theo lời Phật dạy, hướng dẫn họ biết cách gieo trồng phước báu, không phải chờ đến khi giàu có mới làm phước được.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 80)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 154)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 170)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 226)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 152)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 206)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 193)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 231)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 239)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 321)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 559)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 422)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 435)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 531)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 719)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 773)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 816)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 816)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 710)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 691)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 690)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 795)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 819)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 918)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 697)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 591)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 688)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 805)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 687)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 693)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 792)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 812)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 795)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 838)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 867)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 856)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1044)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1579)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1024)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 929)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1186)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1101)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1105)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1248)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1514)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1946)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1056)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1329)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1078)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 931)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1049)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1080)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1502)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1255)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1273)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 998)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1160)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant