Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phước đức và công đức

21 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 26613)
Phước đức và công đức


PHƯỚC ĐỨC VÀ CÔNG ĐỨC


Công đứcphước đức khác nhau thế nào?

Công đức là do tu tâm, rõ được bản tâm sáng suốt nơi chính mình rồi từ đó mỗi lời nói, hành động, suy nghĩ đều hợp với đạo lý làm người, làm điều gì cũng không sai trái, không bị dính mắc hay trói buộc.

Còn phước đứcdiệu dụng của công đức, là kết quả của hành vi làm các việc thiện lành như giúp người hoạn nạn, chia sẻ vật chất, tinh thần giúp người bớt khốn khổ v.v…tạo nên những nhân tốt.

Người làm việc phước đức nhiều được hưởng quả phú quý, giàu sang, của tiền dư dật ở thế gian hay được sanh vào cõi trời. Theo kinh Phật dạy, người dù có phước tột đỉnh được sinh vào các cõi trời hay cõi người để hưởng quả tốt, nhưng đến khi hết phước vẫn bị định luật vô thường chi phối, trở lại trôi lăn trong vòng sanh tử luân hồi. Chỉ có nguời công đức đầy đủ không bị khổ đau chi phối, do đó được an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh.

Để hiểu rõ công đứcphước đức khác nhau thế nào, chúng ta cùng nghe câu chuyện thời đức Phật:

Có một Tỳ-kheo tu hành đã chứng quả A-la-hán, không còn bị tham, sân, si chi phối trong bất cứ hoàn cảnh nào. Người chứng quả A-la-hán sẽ bất động trước mọi nghịch cảnh cuộc đời.

Do nhiều đời tích lũy công đức nên vị Tỳ-kheo này trong đời hiện tại được duyên tu hành chứng quả, nhưng do đời trước không làm phước đức gieo duyên với mọi người, lại còn phỉ báng, ngăn cản người khác thực hành bố thí, cúng dường, nên sanh ra trong đời này Ngài phải chịu khổ đau một thời gian dài. Ngài bị mẹ bỏ rơi lúc 3,4 tuổi, được ngài Xá Lợi Phất đem về nuôi cho xuất gia đầu Phật. Và cuộc đời tu hành của Ngài rất cam go, khổ nhọc, thiếu thốn trăm bề, cho đến khi chứng quả A-la-hán mà Ngài vẫn chưa được một bữa cơm nào thật no đủ. Do nghiệp đời trước ngăn cản người bố thí, cúng dường mà đời nay Ngài phải chịu lãnh quả thiếu ăn suốt đời như vậy.

Nhân quả nghiệp báo sẽ không từ bỏ một ai khi hội đủ nhân duyên, làm lành được hưởng phước, làm ác chịu quả khổ là định luật rất công bằng không có sai biệt. Vì vậy, người Phật tử phải biết sáng suốt chọn lựa, đừng để đến lúc gặt quả xấu rồi than thân trách phận, đổ thừa tại này, tại nọ để rồi chuốt lấy khổ đau.

Bậc Thánh nhân khi gặp quả xấu, do có trí tuệ sáng suốt thấy rõ được nhân quả nghiệp báo, nên không buồn đau sầu khổ. Thân này tuy chịu quả thiếu thốn đói khát, nhưng tâm vẫn an nhiên tự tại trước mọi hoàn cảnh.

Người khôn ngoan phải biết chọn lựa con đường tốt đẹp dẫn đến an vui hạnh phúc, biết làm phước để tích lũy, nếu không biết tích lũy thêm phước đức, đến khi hết phước sẽ gặp tai họa.

Còn công đức là sự tu tâm, sửa đổi, chuyển hóa những tâm niệm tà vạy, tham lam, ích kỷ, hiểm độc, ganh ghét, cho nên vị Tỳ kheo ấy dù bị đói khát, thiếu thốn nhưng không khổ tâm vì biết nhân quả nghiệp xấu chiêu cảm. Cái hay của người tu hành là ở chỗ đó. Và đó cũng là chỗ khác nhau của công đứcphước đức.

Để làm sáng tỏ thêm ý nghĩa của công đứcphước đức chúng ta hãy nghe câu chuyện thiền như sau:

Tổ Bồ-đề-đạt-ma là vị tổ thứ 28 ở Ấn Độ, do nhu cầu hoằng pháp nên Ngài đã đến Trung Hoa gặp vua Lương Võ Đế. Vua hỏi: “Trẫm thường cất chùa, độ Tăng, Ni, in kinh ấn tống rất nhiều vậy có công đức không?

Tổ đáp: “Thảy đều không công đức.”

Nghe thế, vua sửng sốt, bàng hoàng, đâm ra nghi ngờ hỏi tiếp. Tại sao không công đức?

Tổ đáp: Đó là phước báu thế gian được hưởng phước báo làm người giàu sang, thông minh, mẫn tiệpcõi trời, người, như bóng theo hình, tuy có nhưng không bền chắc lâu dài.

Vua Lương Võ Đế tưởng rằng làm những việc phước thiện như vậy là công đức cao cả, nên chấp vào việc làm của mình, bị Tổ tạt cho một gáo nước lạnh, “tá hỏa tam tinh.” Bởi vua Lương nhầm lẫn giữa phước đức và công đức.

Mục đích của Tổ sang Trung Hoa là chỉ rõ cho mọi người nhận ra bản tâm chân thật sẵn có nơi mỗi người. Bởi đa số người đời thường lầm chấp thân và tâm suy tư, nghĩ tưởng của mình là thật nên làm cái gì cũng tìm cách chiếm đoạt, vơ vét bồi bổ cho cái thân xác để hưởng thụ cảm xúc. Vua Lương nghĩ rằng, cất chùa, độ Tăng, Ni, in kinh sách, say mê việc làm phước là công đức, nên Tổ mới phá chấp để nhà vua nhận ra bản tâm chân thật của mình, mà hiểu đúng lý giác ngộ, giải thoát của đạo Phật.

Bởi vì nhà vua không hiểu thế nào là công đức, chỉ một bề lầm chấp công lao của mình, cho đó là cứu cánh của đạo Phật. Nhà vua không hiểu ý sâu xa của Tổ, dù đang là vị vua trên các vua khác, được hưởng phước cao sang tột đỉnh, vẫn bị quy luật vô thường chi phối, rốt cuộc vẫn trôi lăn trong vòng sinh tử khổ đau. Còn chỗ Tổ muốn chỉ cho nhà vua là dừng lặng các tâm tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, để sống lại với tâm sáng suốt của mình (Phật tánh). Từ đó, nhà vua sẽ không còn có bóng dáng của sợ hãi, khổ đau mà hằng an lạc thảnh thơi chan hòa tình thương đến muôn loài.

 Cho nên đến với đạo Phật có hai hình thức: tại giaxuất gia. Song xuất gia là số ít, còn đại đa số là người tại gia. Người xuất gia nguyện suốt đời đi theo lý tưởng giác ngộ, giải thoát, thấy tất cả mọi người đều là người thân, người thương của mình, trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh. Vì vậy người xuất gia nêu cao tinh thần hy sinhTam Bảo, còn người tại gia ngoài việc lo cho gia đìnhxã hội, thấu hiểu lý nhân quả, nghiệp báo cần tự giác phát tâm hộ trì Tam Bảo, trợ giúp vật chất để người xuất gia (chư Tăng Ni) có điều kiện, thời gian tu họchành trì.

Việc làm của vua Lương Võ Đế quả là một điều khó làm. Bởi Ngài là vua một nước, trăm công, ngàn việc, nhưng Ngài vẫn tranh thủ thời gian làm những việc khó làm. Lương Võ Đế là ông vua cư sĩ trên đời này làm được như vậy là hiếm có, giúp cho dân chúng an cư lạc nghiệp, sống trên tinh thần đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, do đó trong nước rất ít tệ nạn xã hội.

Người người theo Phật tu nhân thiện

Mười phương thế giới dứt binh đao.

Việc làm của vua Lương Võ Đế quả thậttuyệt vời đối với cuộc sống thế gian, nhưng vì Ngài lầm chấp cho rằng đó là cứu cánh của đạo Phật nên mới hỏi Tổ: “Con cất chùa, độ Tăng, Ni, in kinh ấn tống có công đức không?”

Tổ đáp: Đều không công đức.

Vua hỏi tiếp: Thế nào là Thánh đế đệ nhất nghĩa?

Tổ đáp: Rỗng rang không Thánh.

Thánh đế đệ nhất nghĩa là chỉ cho thật tướng vô tướng rỗng lặng sáng suốt thanh tịnh nơi mỗi con người. Bởi vua chạy theo danh tựhình tướng bên ngoài nên không nhận ra trong mình có ông Thánh đang hiện diện sờ sờ. Vì vậy vua hỏi:

- Đối diện trẫm là ai?

-Tổ đáp: không biết!

Đến thời Lục Tổ Huệ Năng, có người đọc đoạn đối đáp của vua Lương Võ Đế với Tổ Bồ-đề-đạt-ma mới hỏi, Tổ đáp: Thật khôngcông đức, chớ nghi lời bậc Thánh nói. Vì vua Lương Võ Đế không hiểu được yếu nghĩa khai thị trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật” nên cho rằng cất chùa, độ Tăng, Ni, in kinh bố thícông đức, thực chất đó chỉ là làm phước, không thể đem phước đổi công đức được.

Công đức là do tu tâm mà được; tự tu tánh là công, tự tu thân là đức, đức phải do nơi tự tánh mà thấy, không phải do bố thí cúng dường mà được. Do đó, công đức là do tu tâmbản tánh rỗng lặng nhưng hằng thấy biết.

Còn những việc làm của vua Lương Võ Đế là do nhân quả phước báu của trời, người. Có phước thì được giàu sang, có nhiều của cải quyền thế, hưởng thụ vật chất đầy đủ, song hưởng thụ phước báu mà không biết kiệm phước thì cũng có ngày hết, phải chịu khổ đau trong vòng luân hồi sinh tử. Do đó, có phước mà thiếu công đức dễ dẫn đến phiền não, chấp trước, thấy mình là người bố thí, kẻ thọ nhận phải biết ơn mình, sanh tâm cống cao, ngã mạn, nhiều khi thấy người thọ nhận vô ơn, bạc nghĩa, không biết nhớ ơn họ mà còn sanh tâm coi thường khinh rẽ họ, không những bị mất phước mà còn phải mang lấy tội quả xấu nữa.

Vì vậy, là người con Phật, chúng ta phải biết quân bình, một mặt tích lũy phước báu. Nhờ có phước ta dễ có điều kiện tu học, một mặt tích cực tu tâm để chuyển hóa khổ đau khi đối diện nghịch cảnh cuộc đời. Trái lại, người đã sống với tâm chân thật, dù có bố thí đúng dường, làm nhiều phước thiện, cũng đều là công đức cả, vì họ làm trong vô tâm.

Vô tâm là tâm rỗng lặng sáng suốt không bị dính mắc, chấp thủ vào việc mình làm, chỉ tùy thời, tùy duyên làm lợi ích, không thấy mình là người bố thí, không thấy người thọ nhận và vật thí, do đó được an nhiên, tự tại trước mọi hoàn cảnh trái ngang. Nếu ta biết kết hợp làm phước và tu tâm, thì khổ đau sẽ không có mặt trong hành trình cam go của cuộc đời.


Ý kiến bạn đọc
22 Tháng Giêng 202106:25
Khách
Chính xác rồi, chắc đây là bài viết của 1 người đã thấu hiểu, đã giác ngộ.
14 Tháng Sáu 201801:33
Khách
Xin hỏi ai là tác giả của bài viết này ?
14 Tháng Sáu 201801:25
Khách
"Theo kinh Phật dạy, người dù có phước tột đỉnh được sinh vào các cõi trời hay cõi người để hưởng quả tốt, nhưng đến khi hết phước vẫn bị định luật vô thường chi phối, trở lại trôi lăn trong vòng sanh tử luân hồi. Chỉ có nguời công đức đầy đủ không bị khổ đau chi phối, do đó được an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh."
là bài kinh nào vậy ?
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14634)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
(Xem: 14611)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14045)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14931)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16542)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29862)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16200)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15526)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14877)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14867)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17870)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15564)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38649)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26706)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39631)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50737)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38717)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35025)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18297)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16456)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42381)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39222)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35594)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17447)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46500)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17144)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28486)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 18986)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17580)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17105)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17536)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16514)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16866)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30825)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16931)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18495)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18441)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17370)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18159)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17064)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23467)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 16981)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17452)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17659)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17053)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15732)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18022)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17384)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17177)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29506)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27707)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18156)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16096)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15345)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 23008)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14815)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55085)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14187)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
(Xem: 13241)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
(Xem: 14162)
Rõ ràng, trong các mối quan hệ của con người thiết lập, thì mối quan hệ thầy đối với trò có một vai trò quan trọng trong đời sống thăng tiến tri thứcchuyển hóa tâm linh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant