Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cúng dường chứng quả A-na-hàm

21 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 14013)
Cúng dường chứng quả A-na-hàm


CÚNG DƯỜNG CHỨNG QUẢ A-NA-HÀM


Thời Phật tại thế, có một bà nhà giàu hết lòng tin kính Tam Bảo, bà luôn ứng dụng, hành trì, tu tập những lời Phật dạy và thường hoan hỷ phát tâm cúng dường chư Tăng.

Điều mầu nhiệm đặc biệt là bà phát tâm ủng hộ cúng dường cho người nào thì người đó ngộ đạo. Đây là do túc duyên gieo trồng phước đức nhiều đời, nhiều kiếp của bà.

Tiếng lành đồn xa, một số thầy nghe danh, muốn đến thử xem mình có duyên lành với vị thí chủ này không. Nhân mùa an cư kiết hạ, quý thầy bàn nhau đến kiểm nghiệm lời đồn đãi ấy có đúng không và cũng để thăng tiến trong mùa an cư kiết hạ này.

Được tin quí thầy đến trú xứ của mình tu tập, bà già hoan hỷ cúng dường những gì cần thiết trong thời gian chư Tăng tu tập. Chỗ ở của bà khá rộng rãi, rừng cây xum xuê, thuận lợi cho việc tu tập và hành thiền.

Bà thưa: “Quý thầy cứ yên tâm ở đây tu tập, không phải đi khất thực, con sẽ cung cấp đầy đủ các nhu cầu cần thiết, con chỉ mong sao quí thầy mau chứng thành đạo quả.

Khoảng ba mươi thầy, ai nấy cũng thuận hỷ lời thỉnh cầu của bà, ở lại tu hành miên mật, tinh tấn. Tuy nhiều thầy cùng trú, nhưng khu vườn vẫn im phăng phắc làm cho bà già đâm ra nghi ngờ, tại sao không nghe nói chuyện hay là quí thầy giận nhau? Tại đây, các thầy đều được chứng quả trong một thời gian ngắn. Thời ấy, nhờ sự trực tiếp chỉ dạy của Như Lai Thế Tôn, đa số các Tỳ-kheo tu hành đều mau chứng đạo.

Tại sao trong thời Phật hiền tiền, các đệ tử của Ngài tu mau chứng ngộ đạo quả như vậy? Đây là điều dễ hiểu thôi, bởi đức Phật biết rõ tâm niệm của mỗi Tỳ-kheo nên Ngài chỉ dạy mỗi người một phương pháp thích hợp với năng lực, nên các vị tu hành mau chứng đạo.

Bên cạnh, giới luật của chư Tăng hỗ trợ rất tích cực cho sự chứng đắc như đức Phật không cho giữ tiền bạc của cải tài sản nên chư Tăng dễ dàng buông xả hoặc không cho trụ xứ một chỗ lâu dài để không bị bám víu vào sở hữu tài sản, do đó các vị tu hành mau thăng tiến.

Ngày nay, do hoàn cảnh xã hội và phong tục, tập quán không cho phép Tăng, Ni sống như thời xưa được, chư Tăng phải có đủ điều kiện để tu và hướng dẫn Phật tử tu hành, phải có chỗ ở ổn định… Vì vậy, chư Tăng dễ bám víu vào sở hữu tài sản và phải hòa nhập vào cộng đồng xã hội để làm lợi ích chúng sinh. Họ học hiểu tới đâu hướng dẫn Phật tử tu theo tới đó, nên mức độ tu chứng của chư Tăng ngày nay rất hạn chế.

Song, Phật pháp không cố định, cứng ngắt, mà phải tùy thời, tùy duyên hòa nhập vào xã hội, miễn sao người tu sống tốt đạo, đẹp đời là đã có lợi lạc rồi.

Đạo Phật có mặt trên thế gian là vì hạnh phúc của con người, do đó người tu trong thời hiện đại phải khó khăn, chật vật hơn thời xưa, nhưng không vì vậychúng ta cho phép mình lơ là tu tập, mà mỗi người phải cố gắng hơn lên để không bị lui sụt trong hành trì.

Hơn nữa, thời Phật tại thế, không những đạo Phật mà các giáo phái khác cũng không chấp nhận các việc kinh doanh, buôn bán, sản xuất trong khi hành đạo, mà chỉ có việc đi khất thực để tùy duyên hóa độ chúng sanh mà thôi.

Thời nay không có được phúc duyên như thế, nên chúng ta càng cố gắng tu hành nhiều hơn miễn là ta không thối chí nản lòng.

Trở lại sự việc bà già nghi ngờ, hoang mang tại sao chư Tăng ở đông như vậy mà không nghe tiếng ồn. Bà gặp một Tỳ-kheo trong hội chúng để hỏi cho rõ vấn đề.

Và vị Tỳ-kheo ấy đã giải thích cho bà rõ: Trước khi chúng tôi đến đây, đã được Như Lai Thế Tôn chỉ dạy cho mỗi người một phương pháp tu hànhchúng tôi phát nguyện: trong mùa an cư này, mỗi chúng tôi phải tu hành cho đạt Thánh quả hết để đáp đền ơn Phật và đàn-na tín thí. Vì vậy, chúng tôi thống nhất với nhau, mỗi người ở một góc riêng để tu tập và hành thiền. Trong đoàn, thầy nào tu hành đạt kết quả sớm thì có trách nhiệm hướng dẫn các thầy khác trên tinh thần hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau.

Nghe thầy Tỳ-kheo trình bày như thế, trong lòng bà rất hoan hỷ. Từ trước đến naychưa bao giờ được nghe, thấy những điều như thế. Do đó bà khao khát muốn được biết các thầy đang tu pháp gì? Và bà có thể tu theo được không?

Nhờ túc duyên nhiều đời, bà được một thầy Tỳ-kheo hướng dẫn cách thức tu hành, bà siêng năng, tinh tấn trong 7 ngày liền chứng được quả vị A-na-hàm. Quả vị này là một trong bốn quả Thánh Thanh văn. Bà được chứng quả trước quý thầy, có Tha tâm thông, biết được tâm niệm, ý nghĩ của quý thầy muốn gì, cần gì, bà cúng dường chu cấp cho quý thầy đầy đủ theo nhu cầu. Vị Tăng nào vừa bị bệnh, bà liền đem thuốc tới, vị nào khởi niệm muốn ăn món gì bà đem món ấy đến. Bà cúng dường quý thầy chu đáo, đúng mức như sở nguyện. Trong mùa an cư kiết hạ năm ấy, dưới sự bảo trợ, cúng dường của bà, hết thảy quí thầy đều được chứng đắc đạo quả.

Chư tăng khắp nơi nghe tin, ai nấy đều tán thán công đức cúng dườngtu tập của quý thầy trong mùa an cư kiết hạ này. Đó là niềm vui duy nhất mà bà mong muốn và cũng để đền ơn quý thầy đã độ cho bà chứng quả thứ ba A-na-hàm.

Còn quý thầy tu tập trong khu vườn, ai nấy đều rất ngạc nhiên khi thấy mọi nhu cầu của mình mong muốn đều được bà cúng dường đầy đủ. Từ đó, quý thầy không dám khởi niệm lăng xăng, sợ bà hay biết được sẽ chê cười. Do đó quí thầy càng nỗ lực siêng năng, tinh cần tu tập, nên tất cả quý thầy đều chứng quả vị A-la-hán.

Biết được sự thành tâm của bà giànhân duyên tốt đẹp của chư vị thánh đệ tử, Thế Tôn tán thán công đức tu hành của quý thầy và không quên khen ngợi bà già thiện tri thức kia. Chúng ta thấy rõ ràng ngày xưa chư Tỳ kheo tu hành mau chứng đạo nhờ gặp bậc minh sư chân chánh, thầy lành bạn tốt lại được phương tiện hỗ trợ, vật thực đầy đủ, quí thầy khỏi cần lo lắng cưu mang nên tất cả đều tập trung vào đề mục để chuyên tu nên mau chứng đạo.

Một hôm, có thầy Tỳ-kheo nghe chuyện, đến thỉnh cầu đức Phật cho phép đến khu vườn để được bà già chu cấp đúng như ý nguyện, Như Lai Thế Tôn chấp thuận.

Trên đường đi đến chỗ bà lão, vị Tỳ-kheo khởi niệm muốn bà lão chuẩn bị cho mình một giường tòa để nghỉ ngơi, cho ăn những món ưa thích. Biết được ý niệm ấy, bà già ra đón thầy tận cổng ngoài. Bà thưa: “Xin mời Đại đức vào trong nghỉ ngơi, giường tòa con đã đã chuẩn bị sẵn rồi.”

 Thầy Tỳ-kheo ngạc nhiên đến sững người, tại sao mình mới nghĩ như vậy mà bà lão đã biết? Để xem các bữa ăn của mình sắp tới bà lão sắm soạn thế nào? Quả không sai, những gì thầy mong muốn đều được bà lo đầy đủ không thiếu món gì.

Lúc đầu thầy Tỳ-kheo rất hoan hỷ trong lòng, nhưng nghĩ lại, thầy đâm ra lo sợ. Bởi mình vừa muốn ăn món gì, cần vật dụng nào, bà già liền cho người mang tới ngay. Vậy mình tu mà còn khởi lòng tham cầu nhiều quá. Như vậy ở đây mình nghĩ gì bà già này đều biết hết, thầy Tỳ-kheo cảm thấy bất an trong lòng, lo sợ đủ điều, thầy xin cảm ơn bà và lặng lẽ rút lui.

Trên đường trở lại Tịnh xá, thầy Tỳ-kheo gặp đức PhậtTăng đoàn đang khất thực. Thầy Tỳ-kheo liền tiến đến trước mặt Thế Tôn quỳ xuống đảnh lễ và thưa: “Bạch Thế Tôn, nay con trở lại Tịnh xá của mình tu hành, bởi ở chỗ bà lão, con sợ mình suy nghĩ bậy bạ nhiều quá làm mất uy tín của Tăng đoàn, nên con không dám ở lại trú xứ của bà ấy nữa.”

Được nhân duyên tốt, đức Phật khuyên thầy trở lại chỗ bà già tu tập, bởi nơi đó sẽ cho thầy cơ hội phát triển công năng đạo hạnh tốt nhất. Vâng lời đức Phật, thầy trở lại khu vườn bà lão, lần này thầy không dám lơ là, hễ khi vừa có một tạp niệm dấy lên, thầy liền buông xả không bám víu, cứ thế, thầy miên mật chánh niệm trong từng phút giây không gián đoạn. Nhờ vậy chẳng bao lâu thầy chứng quả A-la-hán.

Qua câu chuyện trên, cho ta một bài học quý báu của cuộc đời. Việc tu tập ai cũng có phần, chỉ có điều là ta có quyết tâm tu hành đến nơi đến chốn hay không? Việc tu hành không chỉ dành riêng cho người xuất gia mà người tại gia cũng có phần. Người tại gia, nhờ có phước đức, không phải bận rộn lo ăn, lo mặc, nên việc tu hành được thuận tiện, dễ dàng như bà già kia. Còn người xuất gia, không phải lo lắng, mọi việc đều có người sắp xếp giúp đỡ, việc còn lại là ta có dám can đảm buông bỏ hết mọi vọng niệm hay không? Vì vậy, việc tu hành chứng quả không dành riêng cho người xuất gia mà người tại gia cũng có phần.

Người xuất gia cần phải nhớ rằng, hằng ngày nhờ thọ dụng của đàn-na tín thí tứ sự cúng dường, phải mang nợ nần chồng chất, nếu không cố gắng tu hành thì tự chuốc họa vào thân. Ngày nay có một số Tăng, Ni vì sợ thọ dụng của đàn-na tín thítu tập không đạt kết quả phải mang tội, nên họ tự thân kiếm sống bằng các hình thức thế gian như gieo trồng hoa màu, sản xuất dụng cụ tiêu dùng, thực phẩm chay, hay mở quày bán kinh sách, văn hóa phẩm v.v…Những hình thức tự tìm cách thức nuôi sống bản thân để tu hành là rất tốt, nếu mình không say đắm vào công việc mà xao nhãng hành trì, tu tập. Ngược lại, người thọ nhận phẩm vật cúng dường của đàn-na tín thí là cách thức lúc nào cũng thấy mình được răn nhắc phải tu tập, hành trì. Người quyết chí tu thân, lập hạnh thì không sợ mang tội vì thọ nhận phẩm vật cúng dường.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 30377)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 30652)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 21007)
Gốc rễ của tất cả những tâm thức phiền não tiêu cực là sự dính mắc, thủ trước, hay chấp ngã của chúng ta với những thứ, những vật, những sự kiện như tồn tại thực sự.
(Xem: 20194)
Nguyện mang lại an vui, Cho tất cả chúng sinh. Tôi xin yêu thương họ, Với tất cả lòng tôi.
(Xem: 19423)
Tâm vốn không thiện không ác, chỉ vì có Hành nên có thức qua trung gian của Tâm mà ta gọi Tâm thiện tâm ác. Gọi như thế là ta gọi cái trạng thái của thức mà thôi.
(Xem: 24377)
Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
(Xem: 30647)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 15680)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
(Xem: 27779)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 19761)
Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
(Xem: 15564)
Qua tinh thần kinh Hiền Nhân, chúng ta nhận ra một cái nhìn về đạo đức Phật giáo trong việc ứng xử giữa người với người, là một bài học quý giá...
(Xem: 23240)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23557)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 17521)
Năm uẩn của chúng ta -- thân thể, cảm giác, nhận thức, thúc đẩy, thức: chúng là đất sét mà chúng ta nhào nặn và tạo hình qua sự thực tập thành một vị bồ tát...
(Xem: 15689)
Giải thoát sanh tử không phải là hiện đời không chết, không phải là sống mãi ở vị lai, mà là những khổ sanh tửvị lai không còn sanh khởi nữa...
(Xem: 21866)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 37980)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 22144)
Các khoa học gia ngày nay trên thế giới đang có khuynh hướng chú trọng vào chế độ dinh dưỡng lành mạnh lấy chất bổ dưỡng từ nguồn thức ăn do thực vật đem lại...
(Xem: 23236)
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác...
(Xem: 21343)
Giác ngộ là sự hiểu biết đúng như thật; giải thoát là sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ có sự hiểu đúng, biết đúng mới có sự an lạchạnh phúc...
(Xem: 28408)
Mục đích giáo dục của đức Phật là làm thế nào để đoạn trừ, hay tối thiểu làm giảm bớt những khổ đau của con người, đưa con người đến một đời sống an lạchạnh phúc...
(Xem: 32530)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 25168)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34677)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 22931)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27695)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 31288)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13593)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
(Xem: 25160)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27801)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 22074)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 20724)
Trước khi vào nội dung đề tài lần này thì có một nghi vấn đã được đặt ra như sau: "Mục tiêu của đạo Phật vốn là để giải thoát hành giảchúng sinh khỏi đau khổ luân hồi...
(Xem: 22208)
Đạo Phật đã hình thành và phát triển hơn 2500 năm, cho đến nay, tôn giáo này đã đang được sự chú ý nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học.
(Xem: 27104)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 24131)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 21886)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 14704)
Đức Phật là vị A-la-hán đầu tiên. Các vị A-la-hán đệ tử của ngài đều giống ngài và các vị Bồ-tát ở chỗ sau khi chứng đạt giải thoát, tiếp tục cứu độ nhân loại...
(Xem: 23140)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 24007)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 21091)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 14194)
Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia.
(Xem: 19926)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 22494)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 14062)
Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên. Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra...
(Xem: 28022)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 22805)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 28185)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 10976)
Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý.
(Xem: 28489)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 31552)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 26160)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 14934)
"Người ta không bao giờ tắm hai lần trên một con sông" triết gia Hy Lạp cổ đại Hêraclitôxơ đã nói như vậy cách đây 2.500 năm.
(Xem: 28034)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
(Xem: 7427)
Phật GiáoTâm Lý Học Hiện Đại do ban biên tập của Bồ Đề Học Xã biên soạn, là một tài liệu giá trị cho những ai muốn tìm hiểu sự khác và giống giữa Phật PhápTâm lý Học Trị Liệu Tây phương.
(Xem: 25345)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 20696)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 21118)
Sách này có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm các khóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, được giáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ...
(Xem: 12228)
Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
(Xem: 11901)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12796)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant