Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 2: Sự Truyền Bá Phật Pháp

31 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11136)
Chương 2: Sự Truyền Bá Phật Pháp

CẨM NANG CƯ SĨ
Tâm Diệu
Nhà Xuất Bản Phương Đông 2008

CHƯƠNG 2

SỰ TRUYỀN BÁ PHẬT PHÁP

Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào thế kỷ thứ 6 TTL[10] tức hơn hai ngàn năm trăm năm trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca Niết Bàn gần hai trăm năm mươi năm, tức khoảng thế kỷ thứ 3 TCN, Phật giáo trở thành tôn giáo mang tính thế giới, do công của hoàng đế Asoka đã lập những đoàn truyền giáo mang giáo lý Phật truyền sang các nước Á Châu và lan toả ra ngoài biên cương đại lục

Phật giáo được truyền đi hai hướng: một hướng đi về phía Nam Ấn, truyền qua Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Ai Lao, và Campuchia. Phật giáo truyền theo hướng này bằng ngôn ngữ Pali và được gọi là Phật giáo Nam Truyền. Một hướng khác đi về phía Bắc Ấn qua A Phú Hãn (Afghanistan) đến Trung Hoa. Từ Trung Hoa, Phật giáo truyền đến Hàn Quốc, Nhật BảnViệt Nam. Và một hướng thứ ba cũng từ Bắc Ấn truyền sang Nepal vào Tây Tạng. Phật giáo truyền theo hai hướng sau này bằng ngôn ngữ Sanskrit hoặc được chuyển ngữ qua tiếng bản địa và được gọi là Phật giáo Bắc Truyền.

Mặc dù đức Bổn Sư đã không để lại sự ghi chép những giáo lý của Ngài, nhưng các vị đệ tử ưu tú của Ngài đã duy trì những lời dạy đó bằng trí nhớ và truyền miệng giáo pháp đó từ đời này qua đời khác. Những giáo lý của Đức Phật bao gồm những lời dạy trực tiếp của Ngài và các bài thuyết giảng của các vị đại đệ tử của đức Phật như các Ngài Xá Lợi Phất, A Nan Ðà, Mục Kiền Liên..v.v.. Mãi cho đến năm 83 TTL, những giáo lý của đức Phật đã được kết tập thành ba tạng kinh điển qua nhiều lần trước đây, mới được ghi chép trên lá bối tại Tích Lan lần đầu tiên. Ngày nay kinh sách Phật được ghi chép bằng kỹ thuật số vào băng từ tính, đĩa nhựa, thẻ nhớ USB flash [11] và ổ cứng máy vi tính dưới các dạng chữ viết, âm thanhhình ảnh.

Những lời dạy của đức Phật được ghi lại thành ba tạng kinh điển qua hai dạng văn cổ của xứ Ấn thời đó là Bắc Phạn (Sanskrit) và Nam Phạn (Pali): (1) Luật tạng, (2) Kinh tạng và (3) Luận tạng mà người ta thường gọi là “Tam Tạng Kinh Điển”. 

Kinh Tạng ghi lại những lời Phật dạy, bao gồm những bài thuyết pháp của Đức Phật từ buổi thuyết pháp đầu tiên tại Ba La Nại cho đến lúc Phật nhập Niết Bàn. Kinh tạng giống như môt bộ sách thuốc, vì nội dung các bài kinh chứa đựng trong đó, do đức Phật giảng phù hợp với những hoàn cảnh sai biệtcăn cơ của nhiều người khác nhau.

Luật Tạng ghi lại những giới luật làm khuôn phép sinh hoạttu học của Tăng đoàn. Tạng nầy bao gồm các giới luậtnghi lễ cho Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, thể thức gia nhập Tăng đoàn, truyền giới luật, sinh hoạt tăng chúng, cách hành xử trong các trường hợp vi phạm giới luật,..vv.. 

Luận Tạng, còn gọi là Vi Diệu Pháp gồm các bộ luận do các luận sư, đệ tử Phật trình bày, giải thích một cách có hệ thống và theo chiều sâu giáo lý đạo PhậtLuận Tạng chứa đựng triết lý uyên thâm nhất của giáo lý Đức Phật, và ngược lại từ những bộ Luận Tạng này, giáo lý của Đức Phật đã được làm sáng tỏ thêm ra. 

***

Qua nhiều thế kỷ với nhiều lần kết tập kinh điển, số lượng kinh sách Phật giáo có thể lên đến 84 nghìn cuốn. Các trường phái và bộ phái Phật giáo có nhiều ý kiến khác nhau nhưng cũng nhất trí đưa một số kinh sách vào trong ba tạng kinh Kinh, Luật và Luận và đều ghi rằng đó là lời của Phật nói. Phật tử theo các tông phái khác nhau đặt các bộ kinh và luận này ở những vị trí khác nhau. Họ cho rằng một số bộ kinh và luận có tầm quan trọng đối với họ và giữ thái độ khác nhau đối với bộ kinh và luận khác. Từ tôn kính một số kinh văn cho đến xem thường một vài kinh văn nào đó.

Cũng có một số người nghĩ rằng Đức Phật chỉ truyền dạy bằng tiếng Pali và cho rằng những bản kinh được ghi chép bằng ngôn ngữ khác là không đúng. Có những người khác lại tin vào ngôn ngữ Sanskrit. Cả hai ý nghĩ này đều không đúng. Một khi Phật pháp được truyền sang nước khác, được tu tập bởi các vị hành giả, thì nó vẫn được tin tưởng là giữ nguyên vẹn lời dạy bảo của Phật, nhưng rồi dần dần được làm cho thích nghi với tâm hồn dân chúng địa phương và vì vấn đề truyền thông cốt sao cho dễ hiểu. Như vậy, khó có thể tránh khỏi một sự khác biệt giữa quốc gia này và quốc gia khác, do đó chúng ta có thể hiểu được sự thay đổi của Đạo Pháp khi nó di chuyển từ chỗ này đến chỗ khác. Tuy vậy, dù cho có khác biệt, nhưng cũng không đi ra ngoài ngoài nguyên tắc mà Đức Phật dạy là Tuỳ DuyênBất Biến. Tuỳ Duyên là tuỳ theo hoàn cảnh, thời tiết nhân duyên, tuỳ theo văn hoá và tập tục địa phương mà thay đổi các phương tiện cho thích hợp. Còn Bất Biến là không có sự thay đổi đối với những yếu lý quan trọng như đặc tính từ bibình đẳng hay như giới luật của Đạo Phật, dù ở không gian hay thời gian nào. 

Mặt khác, các nhà nghiên cứu Phật học phương Tây tìm cách xác định thời điểm xuất hiện của từng bộ Kinh. Họ đưa ra những giả thuyết về nguồn gốc của một số Kinh Điển Bắc Truyền, một số cho rằng các Tổ Phật giáo ở Trung Hoa sau này sáng tác ra, nhưng họ vẫn thừa nhận những giá trị thâm sâu của nó và cho rằng nó vẫn không xa lìa giáo lý ban đầu của Đức Phật. Khi dùng chữ để diễn tả các kinh loại này, họ dùng từ Sutras of doubtful authenticity tạm dịch là nghi kinh để chỉ những kinh không có nguồn gốc rõ ràng và hai từ Apocrypha và từ Spuriuos (Sutras) để chỉ những kinh được sáng tác ở Trung Hoa. Khi dùng hai chữ này, họ không có chủ ý xác định ý nghĩa xấu. Rất tiếc khi chuyển ngữ ra tiếng Việt, các nhà soạn tự điển Anh Việt, dịch ra là (kinh) ngụy tạo, giả mạo, ngụy thư, ngụy văn…, mang tính chất xấu, gỉa dối, không tốt. Có lẽ nên dịch hai chữ này là “kinh sáng tác” hay “kinh phát triển” thì đúng hơn. 

Các Tổ của Phật giáo, những đệ tử của Phật, những người biên tập kinh, là những vị đã kiến tính đạt đạo, cho nên giá trị của kinh không khác gì với những lời dạy của Đức Phật. Lấy một thí dụ điển hình là Bát Nhã Tâm Kinh, một số học giả Phật giáo và ngay cả Ngài Suzuki, khi nghiên cứu về thời gian tính của kinh này thì cho rằng Ngài Long Thọtác giả. Nhưng khi nói về giá trị của kinh này thì không một ai trong chúng ta phủ nhận giá trị tuyệt vời cao siêu và súc tích của nó. Cũng như kinh Pháp Bảo Đàn của Đức Lục Tổ Huệ Năng, mặc dầu không phải là kinh do Phật thuyết nhưng khó có ai trong truyền thống Bắc Truyền có thể phủ nhận được kinh này.

Nói chung kinh điển Phật giáo nhiều vô cùng. Riêng Trung Hoa dịch kinh điển Phật đã hơn 1000 năm, cũng không biết rõ đã dịch được mấy vạn quyển. Số kinh sách Phật đã được dịch và lưu hành, kể cả các bộ chú giải, giảng thuật của người Trung Hoa gồm hơn ba nghìn bộ, cộng tất cả là hơn mười lăm nghìn cuốn. Tuy nhiênthời gian truyền bá lâu và đi xa nên khó tránh khỏi những tư tưởng, tập tục và văn hoá bản địa lẫn lộn trong kinh sách. Vì thế trong kinh của cả hai truyền thống Nam Truyền và Bắc Truyền đều có dạy dùng Ba Pháp Ấn, Bốn Pháp Ấn hay Một Pháp Ấn để làm dấu ấn xác minh coi pháp đó có phải là do Phật thuyết không. Ấn là dấu in để ấn chứng

Ba Pháp Ấnvô thường, khổ và vô ngã là ba dấu ấn mang tính pháp định, dùng để chứng nhận tính xác thực của chính pháp. Mọi giáo lý của đạo Phật đều phải mang các pháp ấn, nếu thiếu một trong những pháp ấn đó thì giáo lý ấy không phải lời Phật dạy. Chính vì tính chất quan trọng này mà Ba Pháp ấn luôn được nhắc đến trong hầu hết kinh điển, từ kinh tạng Nam truyền đến kinh tạng Bắc truyền.

Bốn Pháp Ấnvô thường, khổ, vô ngãNiết bàn hay vô thường, khổ, vô ngã và Không (Kinh Tăng Nhất A Hàm). Niết bàn là tên gọi khác của vô ngã [12] và Không cũng là một cách nhìn khác về lý duyên khởi. Các pháp đều do điều kiện, nhân duyên tạo thành, vì thế chúng vô ngã. Do đó, có thể xem Ba Pháp Ấn vô thường, khổ và vô ngã là những nguyên lý cơ bản nhằm xác định chính pháp, là một định thức chuẩn mực để tái thẩm định các lý thuyết, quan điểm và cả pháp môn tu tập của Phật giáo

Một Pháp Ấn cũng là Thật Tướng Ấn tức là lấy thật tướng của các pháp làm gốc, nên nói nghĩa lý thật tướng của các pháp là ấn tín của hệ thống tư tưởng Phật giáo Bắc Truyền. 

***

Nói tóm lại, dù với bất cứ kinh điển thuộc truyền thống nào, Nam Truyền cũng như Bắc truyền nếu có sự hiện diện của vô thường, khổ và vô ngã là xác định tính cách chính pháp. Nói một cách khác, vô thường, khổ và vô ngã là ba phạm trù dùng để công nhận những kinh điển nào phù hợp với những lời dạy của đức Phật, phù hợp với sự thật thì những lời dạy ấy đích thật là của trí tuệ. Do vậy chúng ta không nên đặt vấn đề ngụy kinh, nghi kinh hay chính kinh. Bất cứ kinh nào có giá trị nói lên giáo lý vô thường, khổ và vô ngã thì chúng ta xem đó là kinh Phật, và nên học lấy những tinh túy của nó thay vì đi tìm kiếm xem nguồn gốc của bản kinh. Hay khi xem một lời kinh hoặc một quyển kinh, chúng ta nên tự mình tìm hiểu nội dung của kinh, những ý nghĩa ẩn tàng trong đó và dùng trí tuệ của mình xét nghiệm xem như thế nào mà không nên khẳng định ngay rằng kinh này là sai, không phải là kinh của Phật, do vì các nhà học giả đã nói như thế. Trước khi Phật Thích Ca Niết Bàn, Ngài đã căn dặn mọi người rằng hãy “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi” là vậy.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7324)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4503)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4551)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7285)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2951)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12179)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3982)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3792)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4177)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3663)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5020)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6642)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 3989)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4109)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5324)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3776)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4512)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3539)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3920)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4383)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5385)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3838)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3922)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3859)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4815)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4503)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4235)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3821)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4618)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4176)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6086)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4591)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4934)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4153)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4795)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5645)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3626)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4018)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4576)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5260)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3128)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4739)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4526)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4273)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4733)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4479)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4584)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7199)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5188)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 4983)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4571)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5591)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5257)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4152)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 5994)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4703)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4861)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5465)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5601)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5798)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant