Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Cầu Siêu Truyền Thống Nam Truyền

31 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 14939)
Kinh Cầu Siêu Truyền Thống Nam Truyền

CẨM NANG CƯ SĨ
Tâm Diệu
Nhà Xuất Bản Phương Đông 2008

PHỤ LỤC
NGHI THỨC CẦU SIÊU 
THEO TRUYỀN THỐNG NAM TRUYỀN
(Trích Nghi Thức Tụng Niệm do Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thuỷ Việt Nam tu chính 18-1-1998 Tự Viện Liên Hoa, Irving, 
Texas USA ấn hành 2002)

Ðây là khoá lễ tụng cho người quá vãng. Sử dụng trong các trường hợp cầu siêu, tang lễ, giỗ kỵ... Nội dung kinh văn có mục đích soi sáng nội tâm thấu rõ chân tướng vạn pháp, hồi hướng phước lành cho chư vị hương linh, khuyến tấn tu tập cho thân nhân hiện tiền

Dâng Hương 
[Chủ lễ xướng] 

Trước Tam Bảo uy linh tối thượng 
Ðèn trầm hương tâm nguyện chí thành 
Cầu cho pháp giới chúng sanh 
Khắp cùng ba cõi muôn phần phước duyên 
Mãi tấn hóa trên đường thiện nghiệp 
Mãi vun bồi hạnh phúc vô dư 
Liên hoa nở khắp biển từ 
Trần sa vô nhiễm huyễn hư đoạn lìa (lạy) 

Kỳ Nguyện 

Hôm nay đệ tử chúng con chí thành đảnh lễ Tam Bảo vô thượng tôn Phật, vi diệu Chánh Pháp, thánh đức Tăng Già

Chúng con thành tâm cúng dường Tam Bảo, thiết lễ kỳ siêu độ, hồi hướng công đức đến hương linh …. Cùng tất cả thân nhân quá vãng cảm nhận Phật ân đức, ngộ Chánh Pháp nhiệm mầu, khởi lòng tịnh tín, thượng hưởng phước lành, vãng sanh cảnh giới an lạc

Chúng con nguyện trọn đời y lời Phật dạy, lánh xa điều ác, tu tập hạnh lành, thanh tịnh tâm ý. Trước báo đền thâm ân hoá độ, đáp nghĩa nặng sinh thành, sau vun bồi duyên lành giải thoát, lợi lạc chúng sanh

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (lạy) 

Dâng Hoa 
[Ðại chúng cùng tụng] 

Pūjemi buddhaṃ kusumenanena 
Puññena me tena ca hotu mokkhaṃ 
Pupphaṃ milāyāti yathā idaṃ me 
Kāyo tathā yāti vināsabhāvaṃ. 
Pūjemi dhammam ... 
Pūjemi sangham ... 
Dâng hoa cúng dường Phật 
Bậc thương xót muôn loài 
Dâng hoa cúng dường Pháp 
Ðạo nhiệm mầu cứu khổ 
Dâng hoa cúng dường Tăng 
Ruộng phước không gì bằng 
Hoa tươi đẹp sẽ tàn 
Thân giả hợp sẽ tan 
Nguyện tu mau chứng đạt
Quả chân thường giải thoát (lạy) 

Lễ Tam Thế Tam Bảo 
[Đại chúng cùng tụng] 

Nam mô thập phương tam thế Phật Bảo 
Nam mô thập phương tam thế Pháp Bảo 
Nam mô thập phương tam thế Tăng Bảo (lạy) 

Thỉnh Chư Thiên 

Ðạo tràng thanh tịnh bồ đề 
Mười phương thiên chúng hội về nghe kinh 
Pháp mầu diệt tận vô minh 
Pháp mầu cứu khổ sinh linh vạn loài 
Từ dục giới vân đài sáu cõi 
Ðến thiên cung sắc giới hữu hình 
Duyên xưa đã tạo nghiệp lành 
Kết thành phúc quả thiện sanh đến giờ 
Ngự khắp chốn bến bờ đồng ruộng 
Hoặc hư không châu quận thị phường 
Non xanh rừng rậm đất bằng 
Hoặc nơi quán cảnh xóm làng gần xa 
Xin đồng thỉnh dạ xoa chư chúng 
Càn thát bà long chủng nơi nơi 
Miếu đền thành quách lâu đời 
Sông hồ hoang đảo biển khơi trùng trùng 
Pháp vi diệu nghìn thân nan ngộ 
Phước nhân thiên muôn thuở khó cầu 
Ngày tàn tháng lụn qua mau 
Ðắm say trần cảnh vùi đầu tử sinh 
Ðây là giờ chuyển kinh vô thượng 
Ðây là giờ đọc tụng pháp âm 
Lời vàng lý nghĩa cao thâm 
Xin chư hiền giả lắng tâm thọ trì (lạy) 

Xưng Tán 

Namo tassa bhagavato arahato 
sammāsambuddhassa 
Namo tassa bhagavato arahato 
sammāsambuddhassa 
Namo tassa bhagavato arahato 
sammāsambuddhassa 

Cúi đầu đảnh lễ đấng Từ Tôn 
Bậc Chánh Biến Tri đáng cúng dường 
Con nguyện thân tâm thường thanh tịnh 
Làm lành lánh dữ lợi quần sanh (lạy) 

Tam Qui 

Buddham saranam gacchāmi 
Dhammam saranam gacchāmi 
Sangham saranam gacchāmi 
Dutiyampi buddham saranam gacchāmi 
Dutiyampi dhammam saranam gacchāmi 
Dutiyampi sangham saranam gacchāmi 
Tatiyampi buddham saranam gacchāmi 
Tatiyampi dhammam saranam gacchāmi 
Tatiyampi sangham saranam gacchāmi 
Ðệ tử qui y Phật 
đấng Thiên Nhơn Ðiều Ngự 
bi trí vẹn toàn 
Ðệ tử qui y Pháp 
đạo chuyển mê khai ngộ 
ly khổ đắc lạc 
Ðệ tử qui y Tăng 
bậc hoằng trì Chánh Pháp 
vô thượng phước điền 
Lần thứ hai đệ tử qui y 
Phật Pháp Tăng Tam Bảo 
Lần thứ ba đệ tử qui y 
Phật Pháp Tăng Tam Bảo (lạy) 

Lễ Phật Bảo 

Cội bồ đề trang nghiêm thiền tịnh 
Thắng thiên ma vạn chướng trùng trùng 
Con xin lạy đấng Ðại Hùng 
Rọi vô biên trí tận cùng thế gian 
Từ quá khứ vô vàn Phật hiện 
Ở tương lai vô lượng Phật thành 
Hiện tiền chư Phật độ sanh 
Con xin kính lễ tâm minh nguyện cầu 
Hồng danh Phật nhiệm mầu Ứng Cúng 
Chánh Biến Tri Minh Hạnh đủ đầy 
Ðức ân Thiện Thệ cao dày 
Bậc Thế Gian Giải chỉ bày lý chân 
Vô Thượng Sĩ pháp âm tịnh diệu 
Bậc Trượng Phu Ðiều Ngự độ sanh 
Thiên Nhân Sư đấng cha lành 
Phật Ðà toàn giác Thế Tôn trong đời 
Phật là nơi nương nhờ tối thượng 
Cho chúng con vô lượng an lành 
Qui y Phật Bảo từ ân 
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên 
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối 
Những sở hành lầm lỗi vô minh 
Từ thân khẩu ý khởi sanh 
Ngưỡng mong Phật Bảo đức lành từ dung (lạy) 

Lễ Pháp Bảo 

Bát thánh đạo con đường chánh giác 
Ðưa chúng sanh vượt thoát trầm luân 
Chân truyền diệu pháp thánh nhân 
Con xin tịnh ý nghiêm thân thực hành 
Từ quá khứ vô vàn Diệu Pháp 
Ở tương lai vô lượng Pháp mầu 
Hiện tiền Phật Pháp thâm sâu 
Thuyền từ phương tiện bắc cầu độ sanh 
Pháp vi diệu cha lành khéo dạy 
Lìa danh ngôn giác ngộ hiện tiền 
Vượt thời gian chứng vô biên 
Sát na đại ngộ hoát nhiên liễu tường 
Ðạo vô thượng đến rồi thấy rõ 
Hướng thượng tâm thoát ngõ vọng trần 
Trí nhân tự ngộ giả chân 
Diệu thường tịnh lạc Pháp ân nhiệm mầu 
Pháp là nơi nương nhờ tối thượng 
Cho chúng con vô lượng an lành 
Qui y Pháp Bảo chánh chân 
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên 
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối 
Những sở hành lầm lỗi vô minh 
Từ thân khẩu ý khởi sanh 
Ngưỡng mong Pháp Bảo đức lành từ dung (lạy) 

Lễ Tăng Bảo 

Hoà hợp chúng Tăng Già thanh tịnh 
Ðức vô song tứ thánh sa môn 
Thừa hành di giáo Thế Tôn 
Ðời đời tương tục bốn phương phổ hoằng 
Từ quá khứ vô vàn Tăng Chúng 
ở tương lai vô lượng thánh hiền 
Hiện tiền Tăng Bảo phước điền 
Con xin kính lễ gieo duyên Niết bàn 
Bậc diệu hạnh thinh văn Thích Tử 
Bậc trực hạnh pháp lữ thiền gia 
Bậc như lý hạnh Tăng Già 
Bậc chơn chánh hạnh dưới toà Thế Tôn 
Thành đạo quả bốn đôi tám chúng 
Ðệ tử Phật ứng cúng tôn nghiêm 
Cung nghinh kính lễ một niềm 
Thánh chúng vô thượng phước điền thế gian 
Tăng là nơi nương nhờ tối thượng 
Cho chúng con vô lượng an lành 
Qui y Tăng Bảo tịnh thanh 
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên 
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối 
Những sở hành lầm lỗi vô minh 
Từ thân khẩu ý khởi sanh 
Ngưỡng mong Tăng Bảo đức lành từ dung (lạy) 

Lễ Phật Tích 

Ngàn xưa lưu dấu Cha Lành 
Bảo tháp Xá lợi kim thân Phật Ðà 
Bồ đề khắp cõi ta bà 
Nhất tâm kính lễ hương hoa cúng dường (lạy) 

Kinh Vô Ngã Tướng 

Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ngự tại vườn Lộc Giả, gần thành Ba Ra Na Si. Ðức Phật giảng cho năm thầy Tỳ kheo nghe như vầy

Này các Tỳ kheo, sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩnvô ngã, không phải là của ta. Này các Tỳ kheo, nếu các uẩn thật là của ta, thì chúng không bị đau khổ. Lại nữa, người đời có thể nói xin cho các uẩn của ta như thế này hoặc đừng như thế kia. Này các Tỳ kheo, các uẩn thật là vô ngã nên hằng bị đau khổ. Lại nữa, người đời không có thể nói xin cho các uẩn của ta như thế này hoặc đừng như thế kia. 

Này các Tỳ kheo, các ngươi cho sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩnthường hay vô thường? 

Bạch đức Thế Tôn, các uẩn là vô thường

Vật chi vô thường, vật ấy là khổ hay vui? 

Bạch đức Thế Tôn, vật ấy là khổ. 

Vật chi vô thường là khổ, có sự biến hoại theo lẽ thường, thì nên cho vật ấy là của ta, là ta, là tự ngã của ta chăng? 

Bạch đức Thế Tôn, chẳng nên. 

Này các Tỳ kheo, cho nên sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn nào dù trong đời quá khứ, vị lai, hiện tại, bên trong, bên ngoài, thô thiển,vi tế, hạ liệt, thù thắng, gần hoặc xa, các uẩn ấy chỉ là uẩn thôi. Các ngươi nên nhận thức chân lý ấy bằng chánh trí đúng theo thực tướng như vầy: đó chẳng phải là của ta, chẳng phải là ta, chẳng phải là tự ngã của ta. 

Này các Tỳ kheo, bậc thinh văn được nghe và thấy như thế rồi, liền sanh tâm nhàm chán đối với sắc, đối với thọ, đối với tưởng, đối với hành, đối với thức. Do nhàm chán vị ấy ly tham. Do ly tham, tâm được giải thoát. Khi tâm được giải thoát vị ấy chứng đắc tuệ giải thoát và biết rõ sự sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm và không còn tái sanh nữa. 

Ðức Phật thuyết giảng như vậy, năm thầy Tỳ kheo hoan hỷ tín thọ. Khi đức Phật giảng dạy kinh này, thì tâm của năm thầy Tỳ kheo được giải thoát các vi tế phiền não không còn chấp thủ nữa. (lạy) 

Kinh Hồi Hướng Vong Linh 

Duyên khởi 
Vua Pa Sê Na Đi 
Nằm mộng thấy thân nhân 
Bị khổ quả đói lạnh 
Ðến bạch hỏi Thế Tôn 
Ðức Ðiều Ngự bi mẫn 
Chỉ dạy cách tạo phước 
Hồi hướng các vong linh 
Thoát ly mọi khổ ách 
Chánh kinh 

Các hương linh quá vãng 
Thường đến nhà quyến thuộc 
Ðứng ngoài vách tựa cửa 
Ngã đường hay cổng thành 
Trông chờ hưởng phước thí 
Nhưng vì kém phước duyên 
Hương linh bị quên lảng 
Thân nhân tạo phước lành 
Do công đức bố thí 
Nên phát nguyện bằng lời 
I đăng vô nhá tí năng hô tú 
Sú khí ta hon tú nha tá dô 
Nguyện thân nhân quá vãng 
Thượng hưởng công đức nầy 
Ðược thọ sanh lạc cảnh 
Những thân nhân quá vãng 
Vân tập các đạo tràng 
Nhận được phước hồi hướng 
Thường thốt lời cảm kích 
Mong ân nhân của mình 
Ðược trường thọ phúc lạc 
Người đã tạo công đức 
Chắc chắn được quả lành 
Chúng sanh trong cảnh khổ 
Không có các sinh kế 
Trồng trọt hoặc chăn nuôi 
Bán buôn hay trao đổi 
Chúng sanh cảnh giới này 
Hằng mong đợi phước báu 
Do thân nhân hồi hướng 
Như nước trên gò cao 
Chảy xuống vùng đất thấp 
Phước lành đã hồi hướng 
Có diệu năng cứu khổ 
Như trăm sông tuôn chảy 
Cùng hướng về đại dương 
Nguyện công đức đã tạo 
Thấu đến chư hương linh 
Khi người nhớ ân trước 
Do tình nghĩa thân bằng 
Do tương duyên quyến thuộc 
Hãy cúng dường trai Tăng 
Hồi hướng phước đã tạo 
Sự khổ sầu thương cảm 
Trước tử biệt sanh ly 
Không có lợi ích gì 
Cho thân nhân quá vãng 
Cách trai Tăng hợp đạo 
Gọi Ðắc Khi Na Ða Ná(Dakkhinādāna) 
Cúng dường vô phân biệt 
Ðến đại chúng Tăng Già 
Bậc phạm hạnh giới đức 
Bậc vô thượng phước điền 
Ðược vô lượng công đức 
thắng duyên tế độ 
Hương linh trong cảnh khổ 
Do thiện sự đã làm 
Do hồi hướng đã nguyện 
Do Tăng lực đã cầu 
Xin tựu thành phúc quả (lạy) 

Kệ Tỉnh Thức 

Lẽ tử sanh xưa nay thường sự 
Khổ biệt ly muôn thuở đương nhiên 
Khách hồng trần trăm nỗi đảo điên 
Bậc thiện trí vượt ngoài hệ lụy 
Cuộc trầm luân khởi từ vô thủy 
Nước mắt nhiều hơn bốn đại dương 
Ðã bao đời dâu bể tang thương 
Xương trắng trải phủ đầy đại địa 
Dù một kiếp trọn vui không dễ 
Những phù du hưng phế đổi thay 
Tuổi thanh xuân gẫm có bao ngày 
Già đau chết hỏi ai tránh khỏi 
Kìa bao cuộc thăng trầm danh lợi 
Những nhục vinh kết nối liền nhau 
Khi qua rồi còn lại niềm đau 
Gió đời thổi phàm tâm xao động 
Kìa yêu thương buồn vui huyễn mộng 
Tình thân nhân bằng hữu phu thê 
Thương phải xa ghét phải gần kề 
Ai trọn kiếp không điều ngang trái 
Kìa sự nghiệp bạc vàng của cải 
Ðổ mồ hôi nước mắt dựng xây 
Vật ở đời tay lại qua tay 
Buông tất cả khi tàn hơi thở 
Kìa kiến chấp hữu vô ngã sở 
Bao tị hiềm cùng chuyện can qua 
Lắm đổi dời trong mỗi sát na 
Hạnh phúc đó não phiền cũng đó 
Người trí hiểu căn nguyên thống khổ 
Tìm hướng đi thoát ngõ quẩn quanh 
Ngược dòng mê chánh đạo thực hành 
Chứng thánh quả đoạn mầm sanh tử 
Nương Phật Ðà chí tôn chí thánh 
Nương Pháp mầu đại hạnh đại duyên 
Nương Tăng Già vô thượng phước điền 
Nguyện uy đức cao dầy tiếp độ 
Nam mô Phật Pháp Tăng Tam Bảo 
Nam mô Phật Pháp Tăng Tam Bảo 
Nam mô Phật Pháp Tăng Tam Bảo (lạy) 

Hương Linh Qui Y 

Hương linh qui y Phật 
đấng Thiên Nhơn Ðiều Ngự 
bi trí vẹn toàn 
Hương linh qui y Pháp 
đạo chuyển mê khai ngộ 
ly khổ đắc lạc 
Hương linh qui y Tăng 
bậc hoằng trì Chánh Pháp 
vô thượng phước điền 
Lần thứ hai hương linh qui y 
Phật Pháp Tăng Tam Bảo 
Lần thứ ba hương linh qui y 
Phật Pháp Tăng Tam Bảo (lạy) 

Kinh Chúc Nguyện 

Nguyện phước lành sung mãn 
Hồi hướng các thân nhân 
Như muôn sông ra biển 
Xin tất cả nguyện lành 
Ðược kíp thời viên đắc 
Xin ý thiện tâm thành 
Thường trong sáng chiếu diệu 
Như trăng tỏ ngày rằm 
Như ma ni ngọc báu 
Cầu uy đức Phật Bảo 
Cầu uy đức Pháp Bảo 
Cầu uy đức Tăng Bảo 
Cầu chư thiên gia hộ 
Tất cả điều phúc lành 
Luôn tựu thành như nguyện (lạy) 

Từ Bi Nguyện 

Nguyện cầu tám hướng mười phương 
Chúng sanh muôn loại hãy thường an vui 
Dứt trừ oan trái nhiều đời 
Bao nhiêu đau khổ đến hồi duyên tan 
Hại nhau chỉ chuốc lầm than 
Mê si điên đảo vô vàn lệ châu 
Chúng sanh vô bệnh sống lâu 
Nguyện cho thành tựu phước sâu đức dày 
Nguyện cho an lạc từ nay 
Dứt trừ thống khổ đắng cay oán hờn 
Dứt trừ kinh sợ tai ương 
Bao nhiêu phiền não đoạn trường vĩnh ly 
Nguyện cầu Tam Bảo chứng tri 
Sống đời thanh tịnh từ bi vẹn toàn (lạy) 

Hồi Hướng Công Đức 

Con xin hồi hướng phước lành 
Khắp cùng pháp giới chúng sanh gội nhuần 
Mẹ cha thầy tổ thân nhân 
Hiện tiền quá vãng trọn phần phước duyên 
Cầu xin hộ pháp chư thiên 
Phát tâm hoan hỷ báo truyền gần xa 
Cầu cho mưa thuận gió hoà 
Pháp luân thường chuyển nhà nhà an khương 
Chúng sanh ba cõi sáu đường 
Do nhờ thực phẩm bảo tồn mạng căn 
Nghiệp lành từ khẩu ý thân 
Hoá thành phúc quả tùy nhân sở cầu (lạy) 

Phổ Nguyện 
[Đại chúng cùng tụng] 

Nguyện công đức đã làm 
Kết duyên lành giải thoát 
Ðệ tử và chúng sanh 
Ðồng viên thành chánh giác (lạy) 





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1643)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1624)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1028)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1507)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1476)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1667)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1924)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1518)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1351)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1369)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1543)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1140)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1264)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1271)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1693)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1639)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2984)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1823)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1362)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1219)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1276)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1403)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1317)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1918)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1680)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1887)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1814)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2385)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1780)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2113)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2188)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2295)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1850)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1971)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2030)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1953)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2589)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1943)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1881)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1940)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1886)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2162)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2296)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1963)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2074)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1877)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1902)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2406)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2317)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3986)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2471)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3183)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2467)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2043)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1795)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3304)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2342)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3021)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2699)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant