Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lấy chồng xa xứ

26 Tháng Ba 201100:00(Xem: 12013)
Lấy chồng xa xứ

Lấy Chồng Xa Xứ
Huỳnh Trung Chánh

Khí hậu Texas cũng di truyền được giòng máu ngang tàng hoang dại của những chàng cao bồi ngổ ngáo miền Tây thuở nào, nên đôi khi đang nắng thiêu đốt, chợt sấm sét nổi vang lừng, rồi thì mưa ồ ạt tràn ngập lụt lội đường xá, cuốn phăng xe cộ, nhà cửa, cầu kỳ… Mưa bão lụt lội Texas gây tai họa hơn cả những cơn động đất dữ dằn tại tiểu bang California, thế nhưng thím Mít lại cảm tình với giông bão chốn nầy. Xuyên qua màn nước trắng xóa, thím mường tượng ra hình ảnh cây dừa, cây cau ngả nghiêng đẩm mình trong cơn mưa đầu mùa tại quê hương yêu dấu. Ngồi trong câu lạc bộ, bao quanh bởi đồng nghiệp Việt, nói nghe tiếng mẹ, quan sát cơn mưa rào, thím cảm thấy mát mẻ, an ổn như đang sống tại quê nhà.

- Chị Mít ạ! có chuyện gì mà con Sue rối rít chạy theo xin lỗi chị hoài vậy?, Thủy lên tiếng.

- Ơ! nó giỡn mặt gọi tôi là "banana" chứ!

- Sao chị không "giũa" cho nó một trận!

- Dĩ nhiên là có! Tôi nổi sùng gây: "Tên tao là Mít, đánh vần là M, I, T. Mít là jackfruit trong ngoài đều vàng lườm cả. Tao là thứ Á đông tự hào về màu da vàng, chớ chẳng phải là hạng mất gốc ham hố màu da trắng đâu! Đừng giở giọng kỳ thị với tao!. Con Sue xin lỗi, đính chánh mãi là nó chỉ cà rỡn không hậu ý kỳ thị, nhưng ai tin được nó !

Trên nguyên tắc, thì không có vấn đề kỳ thị chủng tộc lộ liễu trong xí nghiệp, nhưng ai ngăn nỗi chuyện ngấm ngầm, nhứt là từ trong đám thiểu số xô bồ nảy sanh ra lắm kẻ "cà chớn" vô nhân cách. Hiện tượng thấy rõ trong giờ giải lao tại câu lạc bộ là dân tộc nào quây quần theo dân tộc nấy: Mỹ trắng tán gẫu với Mỹ trắng, Mỹ đen tụ tập với Mỹ đen, Mễ quấn quít Mễ và Việt Nam cũng xúm xích bên nhau để kháo ba điều bốn chuyện. Dĩ nhiên, gần gũi với người cùng chủng tộc, ai cũng cảm thấy hòa hợpthoải mái hơn, huống chi sau những giây phút căng thẳng thần kinh, bắt buộc phải nghe, phải nói tiếng nước người rắc rối, nhóm tị nạn tung tăng hội nhập với môi trường tiếng mẹ, sung sướng an lành như được tự do lặn hụp trong giòng nước mát. Trường hợp nàng "Mary Chuối" là một ngoại lệ. Tuy là người Việt chính cống, nhưng nàng chỉ muốn biến hóa thành trắng. Nàng sửa mũi cho cao, lột da mặt cho trắng, nhuộm tóc vàng óng ả, mang kính sát tròng mắt màu xanh… để tạo lốt Mỹ, và do đó, học đòi nói toàn tiếng Mỹ, lắng quắng chạy theo người Mỹ. Nàng lơ là tránh né người đồng hương, nên chẳng mấy ai thích dây dưa với nàng. Bọn Mỹ gán cho nàng biệt danh là "Mary Banana", tên Mỹ rặc nầy dĩ nhiên thời trang hơn cái tên cúng cơm Vũ Thị Gái khiến nàng tỏ ra vô cùng hãnh diện. Tên "Mary Chuối" phát xuất từ đó, chứ không ai có ác ý gợi đến gánh hàng rong chuối chiên, chuối nấu của nàng tại ngã ba Ông Tạ ngày nào. Chữ "banana", nguyên là một trong những tiếng lóng (1) mà người Mỹ dành cho dân Á đông : "Chink" và "Nip" vì chúng nhìn bọn da vàng nào cũng thành người Trung Hoa hay Nhật; "Slope" để chỉ chung cho đám mắt xếch; gọi "Guke" để chê bai hạng ngọng nghệu cù lần. Banana là trái chuối màu vàng, lột vỏ trắng tươi, nên gọi là "Banana" nhằm biếm nhẻ thứ da vàng mất gốc đua đòi Mỹ hóa mong lột xác thành trắng. Thấy công khai khinh lờn giỡn mặt mà Mary Chuối vẫn lốc cốc chạy theo, Sue nổi hứng ghẹo đến Mít không ngờ lại bị phản ứng khá mạnh.

Tránh nhắc nhở lại câu chuyện bực mình, Mít hỏi bâng quơ :

- Mưa Texas có nét tương đồng với cơn mưa tầm tã nước mình phải không các chị ?

- Đúng vậy ! thuở ấu thơ mà được mưa to như thế nầy tắm vui biết mấy ! tranh dành được chỗ máng xối, nước đổ ào ào như thác chảy hấp dẫn làm sao ấy !, Thanh lên tiếng

Thủy góp ý :

- Với em, tiếng mưa rơi là điệp khúc buồn khôn nguôi ! Có lẽ em chịu ảnh hưởng của bà già ! Thấy trời mưa là mẹ rưng rưng nước mắt. Quê ngoại gần xịt, cách có giòng sông Hậu, mà bà cứ than thở "thân phận lấy chồng xa xứ" nhớ nhà, nhớ quê ! Bà thường áo não cất tiếng ru :

Chim đa đa, đậu ở cành đa 

Chồng gần không lấy, lại lấy chồng xa

Nhỡ sau cha yếu, mẹ già

Chén cơm, đôi đũa, bộ kỷ trà ai dâng ?

- Có gì lạ đâu ! thuở xưa đường giao thông trắc trở, chỉ có người đàn ông thỉnh thoảng còn đi đó đi đây, chớ người đàn bà luôn luôn an phận lúc thúc trong nhà. Lấy chồng xa, đã bước ra đi thì coi như vĩnh biệt, chẳng có ngày về !, Mít giải thích.

Tuổi càng lớn càng nhớ quê hương "kịch liệt", Bác Tám nghe lóm đám đàn bà tán chuyện thấm thía nỗi niềm riêng, bùi ngùi chen vào :

- Ơ! thân phận tị nạn của chúng mình, đàn ông hay đàn bà gì, thì cũng chẳng khác thân phận người đàn bà lấy chồng xa xứ ngày xưa bao nhiêu ? Khi vượt biên là đã đứt đoạn đường về, đâu còn dịp nhìn lại cha mẹ, họ hàng, xóm làng, bè bạn… nữa. Ôi !…

Bác Tám cất giọng lâm ly như sắp vô sáu câu vọng cổ hoài lang, chợt thắng đứng lại, khi thấy nàng Mary Chuối lừng khừng bước đến. Sự hiện diện của nàng Mỹ lai căn nầy quá đổi lạ lùng, khiến cả bọn ngạc nhiên nghi ngại, nên ai cũng dè dặt lặng yên chờ đợi.

Mary Chuối xề đến ghế trống cạnh Mít, ngập ngừng lên tiếng :

- Em xin phép ngồi đây góp chuyện với các chị nhé !

"Ối giời", Mít thầm nghĩ, "Mụ nầy chịu nói tiếng Việt quả là chuyện động trời ! thảo nào mà mưa gió bão bùng ngoài kia ! Hay là mụ ta định dò thám vụ đụng độ của mình với con Sue chớ gì". Mít hơn khó chịu nhưng vẫn nhỏ nhẹ mời mọc :

- Xin chị cứ tự nhiên !

Trước thái độ lạnh nhạt của mọi người, Mary Chuối khép nép ngồi xuống rồi ngượng ngập mở lời :

- Em có chuyện rối lòng, rất mong được thỉnh ý quý chị !

- Sao không vấn kế các bà Mỹ, nước non chữ nghĩa của họ, họ rành rẽ, chớ bọn nầy khú khờ đâu biết gì !, Thanh mỉa mai.

- Lòng dạ người Mỹ khác người mình mấy chị à ! Họ đâu có thể cảm thông nỗi đau khổ của em ! Số là mấy ngày trước, sau bữa tiệc rộn rịp mừng sanh nhựt thứ mười tám của con gái em, thì nó liền bỏ học, rồi cuốn gói theo thằng bạn trai sống công khai như vợ chồng. Em khuyên răn, năn nỉ, dọa nạt, ngăn cản nó bằng đủ mọi cách đều không hiệu quả, vì nó khăng khăng cho rằng nó đã thành niên nên được tự do định đoạt số phận của nó… Em than thở và nhờ đám bạn Mỹ liệu kế giúp đỡ, mà tụi nó chỉ bàn chuyện ăn trớt gì đâu không hà ! Con Sophia cười hô hố: "Mầy khờ khạo quá ! Nó dọn đi mầy vừa đỡ tốn hao lại được tự do bằng thích mà phàn nàn nỗi gì ! Con tao đúng mười tám tuổi, không ra khỏi nhà tự lo thân thì tao cũng đá đít đuổi đi tức khắc…". Con Wendy bĩu môi chê : "Đầu óc mầy lạc hậu quá, con nít nó cũng có quyền tự do của nó chớ !". Con Laura thì ra giọng dạy đời : "Ôi ! đừng thèm nuôi con nít làm gì ! Tụi nó phá phách, đòi hỏi đủ điều, tốn hao phiền muộn cho chúng rồi chúng cũng phản phé bỏ mình đi mất. Bởi vậy tao khoái nuôi chó với mèo, nó ở mãi với mình, trung thành với mình, mà chẳng tốn kém là bao !…". Các chị cũng có con cái, các chị có kinh nghiệmchỉ dẫn em thể thức nhờ Cảnh Sát hay Tòa án đem con em về, chớ để nó sống đói rách với thằng bồ đó em điên mà chết…

Từ lâu, người ngợm Mary Chuối là một hiện tượng quái đảng, một mục nhọt nhức nhối cộng đồng Việt nhỏ bé tại xí nghiệp nầy. Mít thầm khinh khi và xa lánh con người mất gốc đó. Bất ngờ, trong con người tưởng chừng như không còn một chút xíu gì là Việt Nam đó, khi thương con, lo lắng cho con thì cũng tràn trề tình mẹ, như bất cứ người mẹ Việt Nam nào khác. Cảm thông với người mẹ khổ đau, Mít dịu dàng an ủi :

- Chi ạ! sống ở xứ nầy, chị em mình ai mà chẳng bạc đầu vì con! Em chỉ có thằng con trai mà cũng điêu đứng nghẹt thở với nó!

Xây qua Thanh và Thủy, Mít tiếp lời :

- Hai chị đều có con gái, đã có kinh nghiệm đầy người, sao không góp ý giúp chị Mary đi !

- Luật lệ nước nầy qui định mười tám tuổi là đã thành niên, tự do chọn nếp sống, nên theo nguyên tắc thì chị không thể ngăn cản con chị ra riêng được. Chị chỉ có phương cách duy nhấtnăn nỉ, giải thích cho nó hiểu để nó tự động về nhà mà thôi !, Thanh lên tiếng.

- Ôi ! em đã năn nỉ đủ mọi cách mà nó vẫn cương quyết bỏ học theo thằng đó, hai đứa đi làm bồi bàn sống bữa đói bữa no, thế mới đau xót chớ !

- Theo tôi thì mình phải hướng dẫn, răn dạy chúng từ lúc chúng còn nhỏ kia, chớ đợi đến lúc nầy thì khó lắm !, Thủy góp ý.

- Em cũng muốn dạy bảo chúng nó chớ ! nhưng nói tiếng Việt thì chúng ngẩn ngơ, còn mới sử dụng một câu tiếng Mỹ thì chúng đã ào ào viện dẫn đủ mọi lý lẽ, em không hiểu nỗi thì còn tranh cãi gì với chúng được ! Có một lần bố chúng nổi nóng, vừa dợm cầm roi thì chúng đã chụp điện thoại đe sẽ gọi cảnh sát 911, nên đâu còn dám hó hé gì nữa !

Bác Tám già lại chen vào bàn chuyện với đám đàn bà:

- Thật ra, mình phải thấy cái nguyên nhân sâu xa kìa! Lũ con cháu chúng mình, phải sử dụng hơn hai phần ba thời giờ, sống trong môi trường Mỹ, học hành, sinh hoạt, tiếp xúc thầy bạn… Mỹ, nên đương nhiên chúng phải tiếp nhận nền văn hóa xứ người; đó là việc không tránh được! Vấn đề của chúng mình là làm sao vạch rõ chúng thấy văn hóa Việt Nam mình có những điểm cao quý như tình gia đình, lễ nghĩa, hiếu kính… phải gìn giữ, và ngoài ra, tuy cũng cần hội nhập văn hóa xứ người, nhưng phải biết tránh tiêm nhiễm thói hư tật xấu của họ…

Mỗi người nói một câu, tuy không ai trực tiếp giải quyết điều gì, nhưng được mọi người quan tâm chia xẻ nên Mary có lẽ cũng nguôi ngoai nỗi niềm đau. Giờ giải lao chấm dứt, thợ thuyền kéo nhau trở lại cơ xưởng làm việc. Mít đi sát bên Mary, khẽ an ủi :

- Cháu nó đi bụi đời một thời gian, nếm chút đau khổ thì mới biết thương mái ấm gia đình, chừng đó, cháu sẽ quay về với chị, chị đừng buồn lo lắm ! Mà ở xứ nầy, đâu ai coi chuyện trinh tiết là quan trọng ! Chị thương yêu chăm sóc thì cháu sẽ làm hại cuộc đời tốt đẹp chớ chẳng có điều gì nguy hại lắm đâu !

*

**

Tan sở ra về, trời tiếp tục mưa to, nhưng Mít vẫn cương quyết lái xe đi xa hằng mươi dậm đến chợ Việt Nam mua vài món gia vị đặc biệt, chuẩn bị những bữa cơm đón đứa con trai học Đại Học Austin, về nhà sum họp trong mấy ngày lễ Tạ Ơn. Suốt ngày làm việc cực nhọc, lại lái xe đường xa, thời tiết cực kỳ nguy hiểm, nên khi về đến nhà Mít đã mệt nhoài. Tuy nhiên, vừa tưởng tượng đến vẻ mặt thích thú của thằng con khi thưởng thức món ăn khoái khẩu, lòng Mít rộn ràng sung sướng, thím tung tăng xách giỏ thực phẩm nặng trĩu vào nhà, tíu tít hỏi han chồng để che dấu nỗi mỏi mệt, rồi phóng ngay vào bếp, lăng xăng nấu nướng. Mít vẫn trung thành với truyền thống của người mẹ Việt Nam ngàn đời, là luôn luôn gói ghém tình thương ngọt ngào của mình cho chồng con qua việc tận tình chăm sóc những bữa ăn tươm tất. Thằng bé lớn lên xứ người, nhưng Mít vẫn cố gắng dạy con sống theo nề nếp dân Việt, nói tiếng Việt, cũng như tập cho con ghiền thức ăn thuần túy Việt. Ghiền món ăn của mẹ, thì dẫu già đời, đứa con cũng thích quay về nhà, nếm hương vị ngày xưa, chớ không xa lìa biền biệt như con cái xứ người. Chính vì vậy, Mít đã đón con bằng một nồi "mắm sặc và rau", một món ăn quê mùa rẻ rề xứ mình nhưng lại cầu kỳ rắc rối tại xứ người.

Cơm nước chuẩn bị sắp xong vẫn chưa thấy con về, thím Mít bồn chồn trông ngóng. Thím luống cuống hỏi chồng :

- Anh Năm ơi ! Sao đến giờ nầy mà thằng Sơn chưa về ?

- Ơ ! có gì đáng lo lắng đâu ! thời tiết xấu nên nó về trễ một chút vậy thôi !

Mít chợt nghe đau nhói ở ngực, ngột ngạt xuýt khuỵu xuống, khi nghĩ đến điều gỡ có thể xảy đến cho con trên xa lộ hiểm nghèo. Cơn đau của thím vụt tan biến, khi có tiếng chân bước rầm rập, rồi thằng bé phóng vào mang theo niềm vui rộn rịp cho cả nhà. Thằng bé reo vang khi nghe mùi vị mắm quen thuộc. Sơn tíu tít kể chuyện, vừa phụ giúp mẹ dọn bàn. Thế rồi, cha con chồng vợ, sau mấy tháng mới có dịp kề cận bên nhau trò chuyện, vừa thưởng thức bữa cơm gia đình ấm cúng và tràn đầy hạnh phúc. Nhìn cảnh hai cha con tận tình chiếu cố món ăn khoái khẩu, mà người nội trợ mát lòng mát dạ. Cùng ngồi ăn, nhưng thím chỉ nhai và nuốt. Bao nhiêu tâm trí thím đều đổ dồn cho con, thím say sưa thưởng thức con, như một người nghệ sĩ thưởng thức danh tác của họ. Tác phẩm của thím toàn bích, từ dung mạo cho đến tánh tình, từ chuyện học hành đến chuyện chơi đùa… chuyện gì cũng khiến thím hỉ hả hãnh diện trong lòng.

- Má ơi ! má !…, thằng bé đả đớ gọi mẹ.

Mít vẫn thích thú được con nhỏng nhẻo, dẫu cho đến ngày đứa con biến thành cụ già. Thím xây qua bẹo càm con, ngọt ngào lên tiếng:

- Gì đó con trai cưng !

- Ơ ! con Pat nó muốn đến nhà mình chơi ngày mai !

Mít giật nẩy người như đĩa chạm phải vôi. Thím hơi sẵn giọng :

Con Pat nào? Phải con tóc vàng, miệng rộng… đến nhà chào má một cái, rồi phóng tuốt vào phòng con đóng cửa kín mít phải không?

Sơn bẻn lẻn :

- Dạ !… con gái xứ nầy mà má. Đứa nào cũng tự nhiên, bạo dạn như vậy cả. Mấy đứa Việt Nam như Lyly, Mimi… đến nhà mình cũng chui vào phòng con kia mà!

Dĩ nhiên Mít dư biết điều đó, nhưng linh tính đàn bà báo cho thím biết nguy cơ ngấm ngầm bắt nguồn từ cô gái Mỹ nầy, nên thím đã phải lưu ý từng chi tiết.

- Ừa ! đến chơi thì đến! mà việc gì phải xin phép ba má !

- Ơ ! tụi con thương nhau…, tính chuyện thiệt tình, nên nó muốn con giới thiệu ba má…

Viễn ảnh về một cô dâu Mỹ từ lâu vẫn ám ảnh Mít, nhưng thím đâu ngờ thảm trạng ghê gớm đó xảy ra đột ngột đến thế. Sau một thoáng sửng sở chết lặng, thím run rẫy gắt gỏng hét :

- Má không đồng ý ! không có vụ giới thiệu giới thiết gì hết ! Má không muốn thấy mặt con đó đến nhà nầy !

Thấy thằng bé buồn hiu, xụi lơ… và có lẽ cũng tự biết phản ứng của mình quá quyết liệt, Mít dịu giọng :

- Con còn nhỏ lắm ! nghĩ đến chuyện bồ bịch làm cái gì ?

- Con đâu còn nhỏ nhít nữa. Con đã lớn khôn, đối đáp với người ngoài con đâu có thua sút ai đâu ?

- Ý má là con phải chuyên tâm học hành, chớ bày đặt dính líu tới con gái thì tương lai lỡ dở đi !

- Vậy miễn là con học giỏi thì má cho con tự do luyến ái hén !… Nè, xin má xem bảng kết quả học vấn của con đây ! môn nào con cũng được A cả mà !…

Nhận thấy đứa con vốn ngoan ngoãn vâng lời mình, nay mới dính líu tới đứa con gái Mỹ đã cù cưa đối đáp, Mít giận dỗi hét vang :

- Giao thiệp với ai cũng được ! mà tuyệt đối cấm liên hệ với con đó. Thứ con gái gì trơ trẽn, không chút lễ độ, ưa hổng vô… Mà tại sao đám con gái Việt, con bà Thanh và bà Thủy đứa nào cũng ngoan ngoãn dễ thương sao con không chọn…

- Má kỳ thị người Mỹ ai mà chẳng biết ! Đám bạn con đến nhà : gái Việt thì má vồn vã, gái Mỹ thì má lạnh lùng, má không cho người ta có cơ hội thân thiện thì làm sao đánh giá người ta được !

Tiếng Sơn nói càng lúc càng lớn, lộ vẻ uất ức nhưng không đến nỗi hỗn hào :

- Con nói thiệt, con thương má con nghe lời má mọi chuyện nhưng chuyện yêu đương của con thì con sẽ làm theo ý con. Má không thể ép con được đâu! Con cưới vợ cho con chớ đâu phải cưới vợ cho má, mà má muốn chọn lựa người đúng theo ý má…

Mít uất ức khổ đau vô hạn, thím không ngờ đứa con mà cả đời thím hi sinh, thương yêu dạy dỗ, nay lại có thể đôi co cãi lý với thím. Trong một thoáng chán chường, thím bỗng có ý nghĩ chết quách cho rồi, hoặc trốn đi biền biệt hay vĩnh viễn từ con, coi như không hề sanh ra nó.

- Sơn con ! - chú Năm bỗng nhiên lên tiếng, giọng chú chậm nhưng nghiêm nghị - dĩ nhiên trong việc hôn nhân, con được tự do chọn lựa người con thương, dù đó là người Việt hay ngoại quốc…

Mít sa sầm nét mặt thầm trách ông chồng lè phè không chịu dạy con, giờ nầy mới lên tiếng thì lại "bắt dàn cho nó leo". Thím phiền ông xã bao nhiêu thì thằng con hí hửng khoái "ông già" bấy nhiêu.

Chú Năm ngọt ngào nói tiếp :

- Tuy nhiên hôn nhân là việc quan trọng, ảnh hưởng đến suốt đời con, nên ba má phải lưu ý một chút, mà nếu má con có quan tâm hơi nhiều, chẳng qua vì bả thương con quá sức, lo sợ con bị lầm lạc đau khổ vậy thôi. Dù sao, ba cũng xác nhận ba má chỉ góp ý, còn con mới chính là người quyết định chuyện hôn nhân của con, con đồng ý không ?

- Dạ !

- Vấn đề trước mắt là chuyện học của con, đó là ưu tiên hàng đầu mà cả đời ba má lo lắng cho con. Năm qua con học khá, nhưng con còn đến ba năm nữa mới ra trường, mà ba không muốn chuyện tình ái ảnh hưởng đến việc học của con. Vậy ba quyết định như thế nầy : Bây giờ con có thể giao thiệp, nhưng không yêu đương sâu đậm, không hứa hẹn, không chung sống…, đợi đến khi ra trường thì con tự do chọn ai kết hôn cũng được, ba má không ngăn cản gì hết… Con đồng ý không?

- Dạ !

Thấy thằng bé tuy đồng ý mà có vẻ gượng gạo, chú Năm tiếp tục thuyết phục :

- Ba biết rằng con tự tin con đủ khôn ngoan để đương đầu đủ mọi vấn đề rồi! Điều đó dĩ nhiên chẳng có gì sai quấy, vì đúng ra, ba còn có thể xác nhận là con khôn và hiểu biết về nước Mỹ hơn ba nhiều. Nhưng chắc con đồng ý với ba điểm nầy : so với năm qua, mức độ khôn ngoan của con năm nay tiến xa vượt bực phải không ?

- Dạ ! quả thật như vậy !

- Đó ! cứ mỗi năm con sẽ khôn hơn một bực, ba năm nữa ra trường rồi, con sẽ khôn ngoan, hiểu biết hơn năm nay nhiều lắm. Chừng đó, con muốn yêu ai, kết hôn với ai, ba má cũng tán đồng tất cả. Chớ bây giờ con lậm tình quá sớm, học hành chễnh mãng, thì làm sao có nghề nghiệp vững chắc nuôi vợ nuôi con. Con có tin chắc rằng con Pat vẫn thương con, nếu con là kẻ vô gia cư, vô nghề nghiệp chăng ?

Ngưng một chút để cho con suy tư, chú Năm mới tiếp tục, giọng nghiêm trang quyết liệt :

- Tóm lại, nếu con thương ba má, biết vâng lời ba má, thì con hãy chấm dứt chuyện yêu đương lẩm cẩm: không hứa hôn, không chung sống… với ai trong lúc nầy. Con hẹn với con Pat ba năm nữa, nếu nó vẫn thương con như bây giờ thì ba rất vui lòng, còn má con dẫu không vui nhưng rồi cũng sẽ chấp nhận tác thành hai đứa…

Tuy không tin chắc đứa con hoàn toàn nghe lời mình, nhưng thấy vẻ mặt nó hòa hoãn, không còn lộ nét bất mãn nữa, chú Năm tạm yên lòng. Chú nghĩ, chuyện dạy con cần phải uyển chuyển, từ từ giảng giải mới mong thấm sâu, nên chú đổi đề tài sang hướng khác. Chú cười vui vẻ rồi cất tiếng :

- Nè! con nên nhớ nằm lòng rằng má con là thứ "Mít" chánh cống, tuy sinh sống ở nước ngoài mà lòng dạ, tư tưởng của bả vẫn rặc ròng là "Mít" ! Ơ ! mà con có hiểu rõ ý nghĩa sâu xa của chữ "Mít" chưa ? Chuyện dài dòng xa xưa lắm, thuở mới xâm lăng nước ta người Pháp gán dân Việt là "Ăn nam mít", tiếng lóng gọi tắt là "dân Mít", danh xưng nầy là một sự mạ lỵ, nhắc nhở tủi nhục của thời lệ thuộc Trung Quốc khiến người Việt yêu nước phẩn uất chống đối. Tuy nhiên, sau một thời gian tranh đấu không xóa bỏ được chữ nầy, người xưa nghĩ đến giải pháphiên ngang tự nhận mình là dân "Mít" với tất cả niềm tự hào dân tộc. Điều nầy cũng tương tợ như chuyện gần đây, có những người bị gọi xỉ nhục là "ngụy", bèn ưỡn ngực chấp nhận mình là "ngụy" với sự hãnh diện trong lòng. Ông cố ngoại con là nhà nho yêu nước khi bôn ba xứ người cảm thấy thương nhớ gốc mít đậm đà : Mít là dân Việt và cũng là hình dáng quê hương gầy guộc qua gốc xoài, gốc mít. Ông cố ngoại đặt tên má con là Mít chính vì lẽ nầy…

Chú Năm vỗ vai con cười hề hà :

- Nè con ! Ba má đâu thể giữ con trong vòng tay ba má mãi được, rồi đây, có ngày con sẽ xa ba má, như con chim đủ lông đủ cánh vươn mình bay cao. Niềm ước mơ của ba má là mong con giữ chút đạo đức gia phong và đừng bao giờ chối bỏ gốc "mít" của mình, vậy thôi !…

*

**

Mít thất vọng chán chường. Bao nhiêu tình thươngtin tưởng thím đặt trọn vào đứa con trai cưng. Thím hi sinh tất cả cho con, dẫu phải tan xương nát thịt để chăm sóc cho con, thím chẳng hề ngần ngại. Ước mơ đơn giản của thím là được gần gũi con cháu, một nhà vui vầy vậy thôi. Thế nhưng coi bộ chuyện đó có vẻ gay go mù mịt lắm! Ôi dâu Mỹ làm sao thấu hiểu tình gia đình quấn quít, đâu dễ gì cảm thông tình mẫu tử thả lỏng chồng về thăm nom cha mẹ. Con quên mẹ nhưng mẹ làm sao quên con được! Rủi ro thím nhớ con, lò dò đi thăm nó cũng đâu phải chuyện dễ dàng: con dâu nó dám viện cớ không có hẹn trước, bận rộn, thiếu chuẩn bị… cấm cửa không cho vào nhà thì lại bẽ bàng! Thím lại nghĩ đến đám cháu nội tương lai mà lo lắng chẳng biết bà nội có quyền bồng ẫm, tưng tiu chăng? Và dù giận con, nghĩ đến chuyện ăn uống của nó thím lại bồn chồn rối rắm: thằng nhỏ quen được chiều chuộng, chăm sóc…, thế mà sẽ bị đày đọa, cho "dộng" toàn bộ đồ hộp ngán ngẫm thì chịu đời sao thấu ?

Chú Năm ái ngại nhìn dáng dấp thiểu não của vợ, ân cần an ủi :

- Em à ! chuyện đâu còn đó ! rầu rĩ làm gì cho nhọc xác !

- Nè em ! thằng con mình tương đối cũng ngoan ! thủng thẳng dạy dỗ rồi nó cũng nghe lời mình mà !

Vỗ về đôi phen, mà mụ vợ vẫn bùng thụng hờn dỗi, chú Năm bèn trổi giọng cười cợt trêu ghẹo :

- Chà! coi bộ người ta sắp có con dâu Mỹ nên làm tàng quá hén ! Nè ! tui báo cáo cho bà biết: bọn Mỹ yêu cuồng sống vội, đâu đứa nào chịu hẹn hò! vài tháng chờ đợi là nó đã kiếm thằng khác rồi. Bà dễ dầu gì có được dâu Mỹ đâu mà lộ vẻ đắc chí quá sớm như vậy ?

Té ra ông chồng chỉ dùng kế "hoãn binh" chớ không hùa theo phe với thằng con, hiểu ra. Mít thấm ý tủm tỉm cười :

- Rủi như ba năm nữa, mà con đó vẫn còn thương thằng Sơn thì ông quyết định ra sao ? Mít vẫn còn lo lắng.

- Trường hợp đó hiếm hoi a ! Ơ… mà rủi ro hai đứa nó thương nhau chân tình, ba bốn năm chẳng đổi thay thì cũng đáng khen, thôi thì mình cũng nên tác hợp cho chúng nó.

Đang hớn hở Mít bỗng tiu nghĩu, rồi chắt lưỡi thở than :

- Ôi ! Con cái thời buổi nầy chỉ toàn gây phiền não cho cha mẹ mà thôi !

- Em ạ! thật ra ở thời đại nào giữa con cái và cha mẹ cũng có những điểm cách biệt. Đòi hỏi của con cái bao giờ cũng bị coi là quá trớn, là nguyên nhân gây khổ đau cho cha mẹ cả ! Uốn tốc quăn, mặc quần trắng, áo eo, quần ống túm ống xòe, mang guốc cao gót… ngày nay là việc bình thường nhưng có thời cũng bị lên án là đua đòi chuyện động trời động đất !… Thôi em ạ! bỏ qua chuyện thằng nhỏ đi! Thông cảm nó như ba má đã bao dung, tha thứ biết bao hành động lỗi lầm sai trái của mình ngày xưa. Mình cũng làm cho ba má điêu đứng "y chang" như ngày nay thằng con gây ra cho mình! Không nói dông dài, chỉ riêng chuyện chúng mình lẹo tẹo với nhau cũng đã làm cho ổng bả nhức đầu nhức óc lắm rồi!

Chuyện tình của Mít lâm ly, gay cấn từng hồi, Mít ghi nhớ không sót một chi tiết nhỏ. Bà già vốn mơ ước con rể là một giáo sư đạo mạo, hiền lành, lại hiểu rõ xuôi gia… chớ đâu chấp nhận bản mặt "du côn", đi sĩ quan Biệt Động hiểm nghèo như "cái ngữ" đó. Điều éo le là Mít lại mê cái bản mặt "ba gai" ngang tàng của chàng quân nhân Biệt Động, nên nhất quyết sống chết vì tình, dọa bỏ nhà bỏ cửa, bỏ học, tự tử…, để cuối cùng biết không thể khuyên lơn cấm cản được ổng bả đã phải nhượng bộ cô con gái. Từ chuyện nầy dắt dây qua chuyện khác, thím hồi tưởng cả quãng đời niên thiếu, thực sự quán sát mình, để bàng hoàng khám phá rằng mình cũng là đứa con tội lỗi ngập trời, chớ không phải là người con hoàn toàn hiếu thuận, ngoan ngoãn như từ trước đến nay thím từng yên trí.

Ôi! không biết thời bú mớm Mít đã đày đọa mẹ thế nào, nhưng thời bé thơ còn nhớ được, Mít là đứa con cưng được nuông chiều, nên nhỏng nhẻo và bướng bỉnh ngoại hạng. Đòi hỏi nào của con bé cũng có giá trị như mệnh lệnh để mẹ phải cuống quít hầu hạ. Mẹ mà chậm chạp một chút, thì bé giận dỗi, bỏ ăn bỏ uống cho mẹ phải năn nỉ ỉ ôi. Ăn uống mẹ phải đích thân đút, ngủ mẹ phải ru, phải quạt…, thế mà, bé vẫn thường dẫy nẫy khóc la làm tình làm tội mẹ. Bé yếu đau nhẹ nặng gì cũng có mẹ âu yếm chăm sóc chẳng rời, đã vậy, bé còn cố ý rên to, cho bà cuống cuồng sợ hãi.

Lớn lên, tánh nào tật nấy, mình cũng ham hố ganh đua với bè bạn, đòi hỏi cho được áo quần, giày dép, xe gắn máy thời trang, để cha mẹ phải sói đầu quần quật kiếm tiền cung phụng. Đã vậy, tuổi dậy thì tâm tính biến đổi kỳ hoặc, chợt vui, chợt buồn, chợt lầm lỳ quạu quọ. Nhưng vui là vui với bè bạn, chớ về nhà chỉ biết câu mâu, nhăn nhó, đày ải mẹ, thế mà mẹ vẫn vui vẻ xum xoe bên con để cưng yêu chiều chuộng và cũng để chầm chập kiểm soát giữ gìn. Mẹ kềm kẹp kể ra khá nghiêm nhặt: mẹ cấm đoán giao du, kiểm soát giờ giấc, lục lọi thơ tín, mà lại còn ron ren dò xét cả chuyện kinh nguyệt trồi sụt nữa. Thời đó, Mít bực bội, oán giận bà, lên án bà cổ hủ, vô lý, bất công…, nhưng giờ đây, có con lớn, từng nơm nớp sợ con sa vào băng du đảng, vướng xì ke ma túy, bệng Aids nan y… Mít mới thấu hiểu được nỗi phập phòng âu lo canh cánh của mẹ đối với đứa con gái thơ ngây hơ hớ trước bẫy rập của cuộc đời. Cũng nhờ nhớ lại tâm trạng mình khi tiễn con đi học đại học xa nhà, đường liên lạc thuận tiện, mà đã đờ đẫn như chết nửa thân người, thì Mít mới hình dung được nỗi đớn đau ruột gan quặn thắt của mẹ, khi bà phải gượng gạo dối lòng cắn răng khuyên con vượt biên chọn con đường sống.

 Công cha như núi Thái Sơn

 Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con, thím mới "thực chứng" được tình cha mẹ cao sâu diệu vợi như thế nào.

Ngày xưa, mỗi khi ru con cháu, mẹ thường rưng rưng lệ, thiết tha cất tiếng đong đưa "

 

à ơ,…

 Cha mẹ ơi, sanh con là gái

Biết chừng nào trả ngãi mẹ cha !

 Chừng nào cho cá hóa rồng

 Đền ơn cha mẹ, ẫm bồng thuở xưa !

Thuở đó, Mít ngạc nhiên chẳng hiểu câu ca dao tầm thường, vần điệu lệch lạc đó đâu có hay ho gì sao lại gây xúc động nơi bà. Té ra, tâm trạng bà như tâm trạng Mít hôm nay. Nuôi con mới thấu rõ được ân nghĩa cao sâu của cha mẹ, để bất chợt khám phá rằng chuyện trả ơn cha mẹ chỉ là chuyện không tưởng xa vời như chuyện cá hóa rồng mà thôi. Và, do đó, thương nhớ cha mẹ ngập tràn mà chỉ biết ngậm ngùi thở than…

Không cất tiếng ru, mà Mít cũng rưng rưng nước mắt, thím thầm thì :

- Ba má ơi! công ơn của cha mẹ vô biên không ngần mé, thân con dẫu bâm vằm cũng chưa chuộc nỗi lỗi lầm huống chi viễn vông nghĩ đến chuyện báo đền ân nghĩa. Con chỉ có một ước mơ nhỏ nhoi, mơ một lần gần gũi ba má, được nghe, được nhìn, được rờ… được ấp ủ trong vòng tay gầy gò của ba má như thuở ấu thời. Rồi con sẽ hôn ba má và thưa rằng "Con thương ba má lắm ! ba má ơi !". Thế nhưng ước mơ của con mong manh quá, đời con vô phần bạc phước có lẽ chỉ có thể vô vọng trách than thân phận mình, thân phận kẻ lấy chồng phương xa:

 "Than ôi ! cha yếu mẹ già !

 Chén cơm đôi đũa, bộ kỷ trà ai dâng !?"

- Vừa nhắc tới ba má thì bà lại "mít ướt" (2) nữa rồi !, chú Năm ái ngại hỏi han vợ.

Sụt sùi một lúc lâu, Mít ngập ngừng cất tiếng :

- Anh Năm à ! có bao giờ cá hóa thành rồng không anh ?

- Chà ! điển tích ngư hóa long tui không mấy rành đa ! Chỉ biết trong thiền viện, chuyện con cá chép lội ngược giòng, vượt qua bậc tam cấp để thành rồng được so sánh như người hành giả lội ngược giòng đời, vượt qua ba ải tham, sân, si… thành bậc chánh đẳng chánh giác. Thành Phật thì cha mẹ đời đời kiếp kiếp cũng cứu độ được, ân nghĩa thâm sâu thế nào cũng đền đáp vẹn toàn phải không em?

- Ôi ! anh đề cập chi chuyện không tưởng đó! mình là con người tội lỗi, tham sân si mờ mịt làm sao dám ước mơ thành Phật?

- Sao bà bi quan như vậy ? Theo lời Phật dạy thì bà là Phật sẽ thành (3) kia mà. Còn nói theo ngôn ngữ bộc trực của chư thiền sư thì bà đã là Phật sờ sờ (4) ra đó, tại bà chưa nhận chân ra được mà thôi !…

Rồi chú cất tiếng ngâm nga :

 "Là cá hóa long tự thuở giờ!

 Mê mờ nước đục dập dờ nổi trôi!"


Ghi chú :

1. Tiếng lóng mỗi nơi mỗi khác. Những chữ ghi trong truyện nầy xuất hiện tại Houston và Dallas (Texas). Tác giả không rõ tại tiểu bang khác, những tiếng lóng nầy có thông dụng không ?

2. Mít ướt là loại mít múi mỏng cơm và nhão, được sử dụng theo nghĩa bóng để chỉ những kẻ mềm lòng, mau nước mắt…

3. Đức Phật dạy: "Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành"

4. Giai thoại về câu hỏi "Phật là ai" có rất nhiều trong thiền sử. Xin đơn cử vài trường hợp điển hình :

a. Linh Huấn, đệ tử của Tri Thường, một hôm hỏi thầy :

- Phật là ai ?

- Ta sẽ nói cho ngươi, nhưng ngươi có tin không ?

- Dĩ nhiên là con tin.

- Phật chính là ngươi đó !

b. Một tăng sĩ hỏi Đại Long Tri Hồng :

- Phật là ai ?

- Phật là ngươi !

- Làm sao con hiểu ?

- Ngươi sợ bình bát không có quai à ?

c. Huệ Siêu hỏi Pháp Nhãn :

- Phật là ai ?

- Chính ngươi ! tức là Huệ Siêu đó !

Tuyết Đậu thiền sư, tác giả Bích Nham Lục, có bài tụng luận bàn như sau :

 

 Giang Quốc xuân phong xuy bất khởi

 Chả cô đề tại thâm hoa lý

 Tam cấp lãng cao ngư hóa long

 Si nhân do đậu dạ đường thủy.

Việt dịch của hòa thượng Mãn Giác :

 

 Giang Quốc gió xuân thổi không lên,

 Chim sáo hót trong bụi hoa sâu.

 Ba bực sóng cao cá hóa rồng,

 Kẻ mê vẫn múc nước hồ đêm.

 (trích Bích Nham Lục)

Tác giả cũng xin phỏng dịch :

 

 Gió xuân lặng tại xứ Giang

 Thâm sâu hoa lý, hót vang sáo nhồng

 Vượt sóng cao, cá hóa rồng

 Người ngu lẩn thẩn tát sông tìm cầu !

Tác giả cũng xin góp chút thiển ý: Cá hóa long mà chưa nhận chân được mình là rồng, thì đâu thể lồng lộng bay cao, chỉ lúc thúc cam phận cá chui rúc trong giòng nước đục nổi trôi:

 Là cá hóa long tự thuở giờ
Mê mờ nước đục, dập dờ nổi trôi…

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25461)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37752)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19421)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18492)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14068)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 19919)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9412)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14210)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35350)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10564)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19534)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23063)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13269)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10643)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20043)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10502)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9855)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14750)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17493)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17457)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13039)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 30953)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25488)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13878)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17379)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10871)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12169)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10363)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12150)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11636)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9529)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12227)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9072)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8373)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9862)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9667)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 11886)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14252)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9815)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11111)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8217)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10882)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 13913)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9821)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15044)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 12890)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 22866)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23731)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12441)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15274)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17600)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 14886)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16413)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 15863)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17376)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11496)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11535)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17662)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10644)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10440)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11211)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 11990)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 10941)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36274)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8865)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9545)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34546)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17116)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10126)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10356)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12108)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13491)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14508)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9064)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24597)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11533)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10226)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15786)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15411)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14409)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12916)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12351)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14411)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18203)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9493)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18372)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18433)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18880)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18656)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11726)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13237)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47866)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 10983)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13438)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 12924)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 10953)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12429)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 10976)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31642)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11586)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant