Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lời Mở Đầu

01 Tháng Tư 201100:00(Xem: 8585)
Lời Mở Đầu

CUỘC ĐỜI CỦA MILAREPA
Tiểu Sử của Đại Đạo Sư Milarepa
Thiền giả Một Đời Thành Phật
Chỉ ra Con Đường Giải ThoátToàn Giác
 

LỜI MỞ ĐẦU

Kính lễ Lama của con.

Từ ban đầu, trong Pháp thân(1) tuyệt bóng vô minh của ngài,
Hai biểu lộ rực rỡ của ngài, mặt trời mặt trăng,
Thoát khỏi hành tinh Rahu(2) ma quỷ,
Đã chiếu rọi những hoạt động của lòng bi và trí huệ vinh quang vô tận.

Bao trùm toàn bộ cõi giới của tri thức,
Ngài đã trừ sạch mọi vô minh tối tăm về Pháp trong những chúng sanh,
Không chỉ trong những ai ở trên đường Đạo, mà còn trong những ai thuộc đủ mọi tính khí mọi dòng tâm thức,
Tất cả những ai qua mọi loại sanh rớt vào thời gian sanh tử.

Ngài đem đến an lạc cho tất cả chúng sanh, quá khứhiện tại,
Cắt đứt con đường bám luyến giác quan do năm uẩn(3) dẫn dắt,
Tạo thành từ những hành động tai hại dưới ảnh hưởng của năm độc,
Và ngài dẫn họ xa lìa khỏi con đường sanh tử ấy.

Hơn nữa, ngài dẫn dắt những chúng sanh ấy đến con đường của Giác Ngộ Viên Mãn,
Đến tám thuộc tính hoàn thiện(4) chỉ trong đời này.
Ngài, người chứng đắc mười năng lực siêu việt,(5)
Ngài, người nổi danh như là Mila,
Chỗ quy y vinh quang của chúng sanh khắp nơi trong vũ trụ.
Con xin đảnh lễ trước ngài.

Đại dương bi mẫn của tâm thức ngài
Đã khởi lên hằng hằng cơn sóng của hành động trải bày vì lợi lạc của chúng sanh.
Và tràn ngập tâm thức con, một dấu chân thú trống rỗng, bằng những suối lạch của tánh giác bổn nguyên,
Mang theo châu ngọc của đức tin và những đức hạnh khác,
Nhờ đó giải trừ cho con khỏi sự nghèo nàn tâm linh,
Và sức nóng cháy xém của nhiễm ô bên trong.

Con đầy tràn niềm vui,
Như niềm vui của một người đàn ông mê đắm gặp một người đàn bà trang điểm đẹp đẽ uy nghi ở một nơi hoang vắng.
Dầu y tôn thờ những giới điều của sự trinh bạch,
Trước mặt sự rực rỡ của nàng thậm chí y không thể muốn rời nàng một bước.
Như một vẻ đẹp tuyệt vời được trang hoàng bằng châu ngọc của lòng bi mẫn,
Khi câu chuyện về sự giải thoát của Đạo sư đến tai của kẻ cầu đạo may mắn này,
Con tràn đầy niềm vui.
Giờ đây con chia xẻ buổi tiệc của câu chuyện kỳ diệuvinh quang này để đem đến niềm vui và nụ cười cho tất cả.

Trong nước thơm của sùng mộ và tinh tấn
Con rửa sạch vết bẩn che đậy viên ngọc cuộc đời của Đạo sư ;
Và đặt viên ngọc này trên ngọn cờ của Phật pháp,
Con dâng cúng sự tôn thờ của mình.
Nguyện lama của con và những dakini(6) ban phước cho con.

Và như thế, vào thời kỳ đầu, trong xứ sở Tây Tạng đầy tuyết trắng, Đạo sư đã ghê sợ bản chất khổ đau của sanh tử thiêu đốt thế gian như một ngọn lửa hừng.

Không tham muốn gì trong đó, ngay cả hạnh phúc cõi trời của Phạm ThiênĐế Thích, ngài xúc động sâu xa bởi lý tưởng và những phẩm tính như hoa sen của giải thoát và của Giác Ngộ viên mãn.

Ngài có trí huệđại bi, niềm tinkiên trì bền chí đến độ ngài sẵn sàng hy sinh cả đời sống mình vì Pháp không chút sợ hãi hay ngập ngừng.

Vào thời kỳ giữa, ngài được lama linh thánh dẫn dắt.

Đã nếm cam lồ của Pháp tuôn ra từ miệng lama của mình, trong núi non cô quạnh ngài đã tự giải thoát khỏi sự nô lệ của nhiễm ô, và những mầm chồi của sự thức tỉnh mọc lên trong ngài.

Bằng quyết tâm mãnh liệt buông bỏ những mục đích thế gian và bằng cách giương cao ngọn cờ thiền định qua gương mẫu tối thượng là những nỗ lực không ngừng của mình, ngài khơi dậy trong tâm thức của những đệ tử sự khao khát con đường giải thoát, vượt khỏi bám luyến thế gian hay giải đãi hôn trầm.

Được hướng dẫn bởi yidam(7) của mình và những dakini, ngài đạt được sự tự toàn thiện của Pháp bằng cách chiến thắng mọi chướng ngại đối với thực hành, và bằng cách nâng cao sự tiến bộ tâm linhmở rộng những kinh nghiệm của thức tỉnh.

Sự tôn thờ của ngài đối với những đạo sư của dòng hoàn hảo đến độ ngài được giao phó những giáo lý bí mật khẩu truyền của những bậc Đạo Sư Bi Mẫn, kế thừa vô số dòng truyền và có những dấu hiệu của sự ban phước gia hộ không gì sánh.

Ngài đã phát sanh nơi mình Bồ đề tâm mãnh liệt và sâu rộng đến nỗi khi nghe đến ngài hay chỉ nghe đến tên ngài thì những chúng sanh không hướng về Pháp đều xúc động rơi nước mắt vì lòng tin, khiến lông tóc trên thân họ đều rung động và đem đến một chuyển hóa cho toàn bộ tri giác của họ đến nỗi hạt giống Giác Ngộ được gieo vào lòng họ ; như thế họ được che chở khỏi những sợ hãi của sanh tử và của những cõi thấp.

Đã đạt đến một giai đoạn quyết định khi những người hỗ trợ đã thức tỉnh(8) trên con đường Kim Cương thừa,(9) những dakini phối ngẫu đã giác ngộ giúp đỡ ngài chứng ngộ tánh Giác tối thượng bằng cách làm khởi lên niềm vui đại lạc trong thân thể ngài.

Cuối cùng, đã làm tan biến hoàn toàn hai thứ nhiễm ô vào pháp giới tánh Không và đã thoát khỏi mọi cái cần phải trừ diệt, Đạo sư đạt đến tánh Giác chân thật vượt khỏi nhị nguyên, và hoàn thiện mọi đức hạnh như trí huệđại bi, để thành một vị Phật nhờ những nỗ lực của chính mình.

Như viên ngọc chót đỉnh của ngọn cờ chiến thắng, ngài đã trở thành Đạo sư tối thượng, được mọi hệ thống tôn giáo, Phật giáo và không phải Phật giáo, công nhận là kiểu mẫu không thể bàn cãi của Giác Ngộ.

Ngài đã thành tựu nhanh chóng kinh nghiệm tối cao của Giác Ngộ qua sự làm chủ con đương Kim Cương thừa.

Ngọn cờ công hạnh của ngài phất phới khắp mười phương cõi, để cho chư daka và dakini tán thán sự vĩ đại của ngài ở khắp mọi nơi.

Lạc đi xuống chảy qua thân ngài cho đến đầu những ngón chân, và lạc đi lên đạt đến đỉnh đầu, đem ngài đến cái Lạc tối hậu của quả.

Qua tiến trình này những nút thắt thô và tế được cởi thoát, mở thông ba kinh mạch và bốn trung tâm năng lực. Như thế ngài đã làm linh hoạt trọn vẹn kinh mạch trung ương.

Nhờ sự thành tựu này, những bài ca của chân lý bất hoại chảy tràn tự nhiên từ miệng ngài một dòng không dứt, làm hiển lộ thực nghĩa của mười hai bộ Kinh và của bốn loại Tantra.(10)

Ngài thấy biết tất cả mọi sự là Pháp thân, vượt khỏi nhị nguyên mê vọng của tâm thức.

Ngài tinh thông khoa học bên trong về những hiện tượng của tâm thức đến nỗi ngài thấy vũ trụ bên ngoài như là một cuốn sách thiêng liêng.

Năng lực trí huệđại bi của ngài lớn lao không thể nghĩ bàn đến nỗi ngài có thể thức tỉnh cho loài thú và nhờ đó dẫn chúng đến giải thoát.

Đã siêu vượt sự lấy hay bỏ của Tám Phản Ứng Thế Gian(11) và thoát khỏi nhu cầu làm vừa lòng những người khác, ngài an trụ trong quang minh thanh tĩnh, là đối tượng cho sự thờ phụng của tất cả trời người.

Qua nỗ lực tối thượng trong thiền định về con đường thậm thâm, ngài đã trở thành một Đạo sư không gì sánh mà ngay cả những Bồ tát(12) được ân sủng tương tự cũng tôn thờ.

Với tiếng gầm của sư tử về tính vô ngã mà ngài đã chứng ngộ, ngài, con sư tử màu trắng tuyết, phóng không ngăn ngại trên những núi tuyết giữa không gian của pháp giới vô cùng, đè bẹp con hươu của những giả định sai lầm.

Bên trong, ngài đã thành tựu năng lực thiền định để chuyển hóa mọi năng lực tâm sinh lý đến độ bên ngoài ngài kiểm soát được những sức mạnh đối nghịch của bốn đại, thắng cương chúng cho sự lợi lạc tâm linh.

quyền lực siêu việt tối thượng trên tâm thứcnăng lực vi tế, ngài có thể bay qua bầu trời như một con chim ưng, di chuyển, đi đứng, nghỉ ngơi khi ở trong không khí.

Qua sự biến hình kỳ diệu của thân thể mình, đảm đương vô số hình thể theo ý muốn, và từ thân phát sinh lửa cháy hực và những thác nước, ngài trừ tuyệt tà kiến của những người tà đạo và đưa họ đến chứng đắc nhờ cái thấy hoàn hảo, thiền định và hành động chánh hạnh.

Đặt nền trên bốn quán đảnh, sự thực hành chuyển hóa Kim Cương thừa của ngài đạt đến hoàn thiện rốt ráo, khiến những daka và dakini vân tập trong hai mươi bốn trung tâm năng lực của thân kim cương của ngài.(13)

Ngài là Heruka,(14) chủ trì chúng hội của những daka và dakini ấy.

Với tâm vô úy và tự tin không lay chuyển, ngài thống trị Thiên Long Bát Bộ,(15) khiến họ phụng sự ngài trong việc hoàn thành Từ Bi Hỷ Xả.

Ngài là một người thợ thủ công bậc thầy thấy biết tánh Khôngquang minh nền tảng của mọi sự vật.

Ngài là người thầy thuốc chữa lành căn bệnh kinh niên của năm độc bằng phương dược của năm phương diện của tánh Giác.

Ngài là bậc thầy của âm thanh, người hiểu tánh bất nhị nền tảng của âm thanhtánh Không, và là người diễn dịch ý nghĩa của những dấu hiệu tiên tri, tốt và xấu, được phát hiện bởi những âm thanh bên trong và bên ngoài của thiên nhiên.

Ngài thấy biết rõ ràng mọi sự ẩn kín, cả ở trong tâm thức con người lẫn bên ngoài nó.

Ngài là nhà siêu hình học bậc thầy, người biết bằng tri giác trực tiếp rằng mọi hiện tượng đều vô tự tánh.

Ngài là Đạo sư thực học, người hiểu tất cả mọi hiện tượng bên ngoài chính là những hiện tượng bên trong của thế giới tâm thức, khám phá bản thân tự tâm là tánh Giác sáng rỡ, không sanh và trống không.

Qua thần lực nội tại trong sự thấy biết không chướng ngại tánh Khôngquang minh này của mọi sự, ngài đã đạt được tự do trong Ba Thân(16) không thể phân chia.

Ngài đã thành tựu khả năng thăm viếng trong một khoảnh khắc tất cả vô số không thể nghĩ bàn cõi Phật bằng thần lực diệu kỳ của mình.

Đó là những hành động kỳ diệu từ sự giác ngộ của ngài đã được chư Phật và chư Bồ tát nói trong khi hoằng pháp, và như thế Đạohoàn thành nhiệm vụ của mình trong những cõi Phật.

Xuất hiện trong những hình thức thích hợp trước chúng sanh sáu cõi, ngài gieo những hạt giống giác ngộ bằng cách chỉ ra cho họ Con Đường với những thí dụ và bài pháp tương ưng với ý định của Phật, nhờ đó hướng dẫn họ đến sự trưởng thành trong giải thoát.

Trong chỉ một đời và một thân ngài đã đạt đến trạng thái giác ngộ của Phật Kim Cương Trì (Vajradhara)(17) trong Bốn Phương Diện Giác Ngộ(18) và Năm Trí Như Lai.(19)

Ngài là bậc thánh trí nhất trong các bậc thánh trí, người đã giải thoát cho vô số chúng sanh khỏi những khổ đau của sanh tử và giúp đỡ họ đạt đến Thành Phố của Tự Do Vô Thượng với bốn đức Thường Lạc Ngã Tịnh.

Khắp nơi danh hiệu của Mila Zhepa Dorje vinh quang chói lọi như mặt trời mặt trăng.

Những công hạnh kỳ diệu lạ lùng ngài đã thực hiệnlợi lạc cho những đệ tử chính của ngài thì thật không thể nghĩ bàn.

Tất cả đây là một tóm lược về sự vĩ đại của cuộc đời giải thoát của Milarepa.

Dù những hành động ngài đã thực hiện cho lợi lạc của chúng sanh thì không thể diễn tả và vượt khỏi tưởng tượng của chúng ta.

Như vậy, câu chuyện của Đạo sư gồm có hai phần, minh họa cuộc sống thế gian của ngài và sự hoàn thành nhanh chóng Giác Ngộ Tối Thượng của ngài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15548)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 22981)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14017)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12944)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55075)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9126)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14406)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14142)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14169)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13868)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36267)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19853)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18149)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19173)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19095)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20264)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17613)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31504)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15901)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14959)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14653)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46141)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35891)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21015)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21568)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23358)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34343)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19459)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18917)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22905)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20151)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18318)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19816)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19509)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33379)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34438)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54468)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37662)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21105)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17857)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63590)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17349)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49611)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27378)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20247)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22996)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18878)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16309)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17890)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20922)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17334)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14447)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16837)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16355)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15983)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17449)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21947)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15085)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13475)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14347)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15359)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14960)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12674)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13325)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27369)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12485)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13167)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14451)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16192)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12375)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15378)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12848)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12175)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13179)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21605)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11259)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22680)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15036)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14920)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46168)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22407)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14529)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12601)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18882)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14707)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43832)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56927)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13815)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47446)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13630)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14549)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28976)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33260)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38329)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15378)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31190)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12508)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40360)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43376)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46616)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant