Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương Hai: Thời Niên Thiếu

01 Tháng Tư 201100:00(Xem: 8817)
Chương Hai: Thời Niên Thiếu

CUỘC ĐỜI CỦA MILAREPA

Đại Thiền Giả Một Đời Thành Phật của Tây Tạng
Một Bản Dịch Mới Từ Tiếng Tây Tạng Bởi Lobsang P. Lhalungpa
Nguyên tác: The Life of Milarepa - A New Translation from the Tibetan 
by Lobsang P. Lhalungpa, Arkana, 1993 - Nhà xuất bản Thiện Tri Thức, 2000

PHẦN MỘT
CHƯƠNG HAI
THỜI NIÊN THIẾU

Bấy giờ ngài Retchung hỏi rằng, “Bạch Đạo sư, Thầy đã nói Thầy từng chịu đựng nhiều bất hạnh sau cái chết của cha. Những điều xấu ấy xảy đến cho Thầy như thế nào ?” Ngài cầu xin như thế, và Đạo sư kể tiếp:
Khi ta khoảng bảy tuổi, cha ta, Mila Ngọn Cờ Chiến Thắng đã ra đi bởi một cơn bạo bệnh. Những y sĩ và thầy pháp tiên đoán rằng ông không thể lành được và bỏ cuộc.

Những người thân thuộc và bạn bè của ông cũng biết ông không thể sống. Chính ông cũng chắc chắn mình sắp chết. Chú của thầy (Ngọn Cờ Chiến Thắng Vĩnh Cửu) và thím (Đấu Thủ Vinh Quang họ Khyung) và mọi người thân thuộc, bạn bè gần xa của ông và láng giềng đều tụ hội.

Cha thầy đồng ý đặt gia đình và những công việc của ông dưới sự chăm sóc của một người được ủy thác. Rồi ông lập một bản chi tiết bảo đảm rằng con trai ông sau này sẽ sở hữu di sản của ông. Và ông đọc to bản chúc thư cho mọi người nghe :

“Trong núi: những gia súc của ta – trâu yak, ngựa và cừu ; trong thung lũng, trước hết thửa đất Tam Giác Phì Nhiêu và vài mảnh đất nhỏ khác; dưới nhà: bò, dê và lừa; trong nhà: đồ dùng, vàng, bạc, đồng và sắt, ngọc bích, vải dệt, lụa và kho thóc. Tất cả những cái đó tạo thành sự giàu có của ta. Tóm tắt, ta có nhiều đến độ không cần tham muốn của ai. Hãy lấy một phần tài sản này cho những chi phí sau khi chết của ta. Phần còn lại ta giao phó tất cả cho mọi người có mặt ở đây cho đến khi con trai ta đủ lớn để chăm sóc tài sản của nó. Ta giao phóhoàn toàn cho chú thím nó chăm sóc.

“Khi đứa nhỏ này tới tuổi đảm đương được những trách nhiệm gia đình, hãy cưới Zessay cho nó, cô là người nó đã hứa hôn từ nhỏ. Rồi hãy để chúng nhận tất cả tài sản của ta, không trừ thứ gì, và để cho con trai ta thừa kế.

“Trong thời gian đó, hãy để cho chú, thím và những bà con gần biết đến những vui buồn của hai đứa con ta và mẹ của chúng. Chớ dẫn dắt chúng vào sự khốn khổ. Sau khi ta chết ta sẽ trông chừng các người ở dưới suối vàng.” Nói xong, ông chết.

Rồi những nghi lễ đám tang được cử hành. Mọi người thân thuộc đi đến chỗ đồng ý về những gì còn lại của gia sản, và mọi người, đặc biệt là những người được nghe di chúc, nói, “Bạch Ngọc, hãy đảm nhận tài sản của chính bà. Hãy làm cái gì bà nghĩ là tốt.” Nhưng người chú và thím nói, “Tất cả mọi người ở đây là bạn bè của chị, nhưng chúng tôi, những người ruột thịt nhất, thì sẽ tốt hơn bạn bè. Chúng tôi sẽ không làm điều gì sai lầm cho chị và những đứa cháu. Theo ước nguyện, chúng tôi sẽ đảm đương việc giữ gia tài.”

Không nghe gì những tranh luận của người anh của mẹ thầy và của gia đình Zessay, ông chú thầy nắm giữ những tài sản thuộc đàn ông và thím thầy những tài sản thuộc đàn bà. Phần còn lại được chia hai. Rồi thím và chú nói : “Đến phiên chị và các cháu phục vụ cho chúng tôi.” Mẹ và anh em thầy không còn sự kiểm soát nào đối với những tài sản của mình. Vào mùa hè, thời kỳ làm việc trên đồng, gia đình thầy là những người làm công cho ông chú. Vào mùa đông, khi dệt vải, mẹ con thầy là những người tôi tớ cho bà thím. Thức ăn của mẹ con thầy là thứ để cho những con chó, công việc là để dành cho những con lừa. Áo quần là một mớ giẻ rách choàng qua vai và cột bằng dây cỏ. Làm việc không nghỉ ngơi, chân tay mẹ con thầy trầy trụa và nhức nhối. Vì thức ăn tồi tệ và đồ mặc nghèo nàn, mẹ con thầy trở nên xanh xaogầy gò. Tóc mẹ con thầy một thời thả xuống từng lọn với ngọc bích và vàng, bây giờ thưa thớt xám, đầy chí rận. Những người từng biết mẹ con thầy, khi thấy hay nghe nói, đều rơi nước mắt. Họ nói lén với nhau sau lưng chú thím. Khi mẹ con thầy bị đè bẹp dưới khốn khổ, mẹ thầy nói với bà thím, “Bà không phải là Đấu Thủ Vinh Quang của họ Khyung, mà đúng hơn là Dumo Takdren, Con Quỷ Như Cọp.” Cái tên này, Con Quỷ Như Cọp, còn giữ lại với thím.

Những ngày đó có câu nói thông dụng : “Khi ông chủ giả mà làm ông chủ, thì ông chủ thật bị đuổi khỏi nhà như một con chó.” Câu tục ngữ ấy để diễn tả mẹ con thầy thì rất thích hợp.

Ngày cha anh em thầy còn sống, mọi người, sang hay hèn, đều nhìn vào gương mặt mẹ con thầy tươi vui hay buồn rầu. Về sau, khi chú thím đã giàu có như vua chúa, thì chính gương mặt họ mỉm cười hay buồn rầu mới là cái để người ta nhìn. Người ta nói về mẹ thầy, “Câu tục ngữ: “Chồng giàu thì vợ giỏi: len tốt thì áo đẹp”, quả thật là đúng. Bây giờ chồng không còn, đúng như tục ngữ nói. Lúc trước, khi chồng bà là ông chủ, đầu ngẩng cao, Bạch Ngọc lúc ấy can đảm và khôn ngoan, như một nội trợ giỏi. Còn bây giờ, bà yếu đuốimặc cảm.” Ngay cả những người đã từng phục vụ gia đình thầy bây giờ lại chế nhạo ba mẹ con thầy. Quả là họ đã làm theo câu tục ngữ “Sự khốn khổ của một người là sự đùa vui cho người khác.”

Cha mẹ của Zessay thỉnh thoảng cho thầy một đôi giầy hay bộ quần áo mới, và họ an ủi thầy, “Chớ nghĩ rằng con nghèo khi sự giàu có đã ra đi, bởi vì tài sản cũng phù du như sương trên đồng cỏ. Trong quá khứ tổ tiên con giàu muộn. Với con thời thịnh vượng rồi cũng sẽ trở lại thôi.”

Rồi thầy bước vào năm mười lăm tuổi. Đó là lúc có một miếng ruộng được giao cho mẹ thầy như là của hồi môn của cha mẹ bà. Miếng ruộng ấy có cái tên chẳng đẹp đẽ gì lắm Trede Tenchung (Thảm Lông Thú Nhỏ), tuy nhiên nó dễ trúng mùa. Anh của mẹ thầy lo canh tác thửa ruộng này, và làm mọi việc có thể làm để thu huê lợi.

Như thế ông đã âm thầm tích lũy một số lúa dư để mua một lượng thịt lớn. Lúa mạch trắng làm ra bột. Lúa mạch đen làm ra bia cho một bữa tiệc mà ông nói là để đòi lại quyền thừa kế của Bạch Ngọc và hai con bà. Bấy giờ mẹ thầy mượn những tấm thảm và trải trong nhà Bốn Cột và Tám Xà của cha thầy để lại.

Trước tiên bà mời chú thím thầy, rồi bà con gần, những bạn bè thân thiết và hàng xóm láng giềng, cuối cùng là những người có biết đến di chúc của cha thầy là Mila Ngọn Cờ Trí Huệ. Với chú thím bà dọn nguyên một con cừu ; với những người khác, tùy theo thứ hạng, một phần tư hay ít hơn. Và bà mời họ dùng bia trong những ly bằng sứ.

Kế đó, mẹ thầy đứng lên giữa đám tiệc và nói, “Khi một đứa con trai được sanh ra, nó được đặt cho một cái tên. Khi một người được mời đến tiệc bia, đó là lúc để nói chuyện. Tôi có điều muốn nói với mọi người tụ hội ở đây, cả hai chú thím và những người lớn tuổi còn nhớ những lời cuối cùng của Mila Ngọn Cờ Trí Huệ vào lúc ông sắp mất.” Bà nói như vậy. Và anh của mẹ thầy đọc bản di chúc. Rồi mẹ thầy tiếp tục, “Tôi không cần phải giải thích cho những vị lớn tuổi ở đây di chúc này muốn nói gì. Cho đến nay, chú và thím đã mất công chịu khó hướng dẫn chúng tôi, tôi và hai con trong mọi việc. Bây giờ con tôi và Zessay đã lớn, đủ sức để có gia đình riêng của chúng. Thế nên tôi yêu cầu các bạn, phục hồi cho chúng tôi những tài sản đã được giao phó cho các bạn, để cho con trai tôi cưới Zessay và giữ quyền sở hữu di sản của nó đúng theo di chúc.”

Bà nói như vậy. Người chú và thím thầy, họ hầu như không bao giờ đồng ý với nhau điều gì, nay kết hợp nhau trong lòng tham lam của họ. Về phần mẹ con thầy, thầy chỉ là một đứa con trai. Về phía họ, họ có nhiều con.

Và chú và thím thầy trả đũa theo cùng một giọng, “Bà có tài sản ư ? Chúng ở đâu thế ? Trước kia khi ông Mila Ngọn Cờ Trí Huệ còn sinh tiền, chúng tôi đã cho ông mượn mọi thứ, nhà cửa, ruộng đất, vàng, ngọc, trâu bò,(1) ngựa cừu. Vào lúc chết ông đã hoàn lại những tài sản ấy cho sở hữu chủ của chúng. Bà có mảnh mún vàng nào đâu ? Một gam bơ nào đâu ? Một bộ quần áo nào đâu ? Một mẩu lụa nào đâu ? Chúng tôi chưa từng thấy một móng chân gia súc. Ai đã viết tờ di chúc đó ? Chúng tôi đã có lòng tốt nuôi nấng các người khi các người mồ côi và cơ cực, bằng không các người đã chết đói. Câu tục ngữ, “Nếu vừa có quyền, người tham lam còn đong luôn cả nước sông” quả là đúng với bà !”

Nói xong, ông chú sụt sịt, hỷ mũi, đứng nhanh dậy, búng ngón tay, giũ áo, dậm chân và nói, “Đủ quá rồi, dầu gì thì cái nhà này cũng là của tôi. Cút đi, thứ mẹ góa con côi bạc nghĩa !” Nói xong ông bạt tai mẹ thầy và đánh anh em thầy bằng ống tay áo.(2)

Bấy giờ mẹ tôi kêu lên, “Bố Mila Ngọn Cờ Trí Huệ ơi, hãy xem số phận gia đình ông. Ông đã nói ông sẽ trông chừng cho chúng tôi ở dưới suối vàng. Hãy xem chúng tôi bây giờ đây này.” Rồi bà khóc, ngã xuống đất và lăn lộn trên đất. Những đứa nhỏ chẳng biết làm gì hơn là cũng khóc theo. Người anh của mẹ thầy không dám đánh trả vì chú thầy có nhiều con trai. Người trong làng vốn yêu quý mẹ con thầy họ thương xót và không ai không chảy nước mắt. Những người khác có mặt đều thở dài.

Chú và thím nói với thầy, “Mày đòi tài sản của mày nhưng mày đã có nhiều rồi. Tiệc đãi đằng cho mọi người mà không thèm ngó ngàng đến bia và thịt đã phung phí. Chúng tao không giàu đến vậy đâu. Mà dù chúng tao có, chúng tao cũng không cho tụi bây đâu, thứ mồ côi ! Nếu tụi bây đông, hãy đánh nhau với chúng tao. Còn nếu ít, hãy chơi bùa chú đi !” Nói xong họ bỏ đi. Sau đó bạn bè họ cũng về hết.

Mẹ thầy khóc không ngớt trong khi anh của bà, cha mẹ Zessay và bạn bè của gia đình thầy ở lại an ủi bà, “Chớ có than khóc nữa ; nước mắt không làm được gì cả. Hãy yêu cầu mỗi người đến dự tiệc đóng góp một cái gì, mỗi người ở đây sẽ cho những cái bà cần, ngay cả chú thím cũng phải đóng góp vào.”

Anh của mẹ thầy nói, “Hãy làm như họ nói và gởi thằng bé đi học một nghề gì đó. Rồi em và Peta có thể sống với anh và làm việc nơi đồng lúa của anh. Luôn luôn là tốt khi mình bận rộn với một công việc có ích. Dầu sao em phải làm một cái gì để không tỏ ra bất lực trước mặt chú và thím.” Mẹ thầy trả lời, “Mất hết tài sản, tôi không bao giờ đi xin một cái gì để nuôi các con tôi. Tôi sẽ không chấp nhận một miếng nhỏ tài sản của tôi từ tay chú thím. Bị chú thím bạc đãi, chúng tôi sẽ không chạy đến như những người đói khát ập đến những chỗ chẩn tế cô hồn.(3) Chúng tôi sẽ làm cho họ nhục nhã. Sau đó chính tôi sẽ trồng trọt trên ruộng đất của tôi.”

Trong vùng Tsa, làng Mithogekka, có một thầy huyền thuật nổi tiếng thuộc phái Nyingma, ông biết sự Thờ Cúng Tám Con Rồng.(4) Mẹ thầy gởi thầy đến đó để học đọc chữ. Lúc đó những bà con cho gia đình thầy mỗi người một vài thứ. Cha mẹ Zessay gởi cho thầy dầu và củi, và để an ủi thầy, thỉnh thoảng cho Zessay đến chỗ thầy đang học đọc. Cậu thầy nuôi mẹ và em thầy và như vậy họ khỏi phải đi xin ăn hay làm việc ở chỗ khác.

Bởi vì anh bà không chịu để cho mẹ thầy cực khổ, bà làm việc ở nhà, ngày này quay chỉ, ngày sau dệt vải. Bằng cách đó bà có một ít tiền và những nhu cầu tối thiểu cho ba mẹ con. Em thầy đi làm cho những người khác nhiều đến mức có thể để kiếm thức ăn và áo mặc. Nó cũng đến những cuộc chẩn tế để kiếm ăn thêm.

Chịu đựng nghèo đói, áo quần ba mẹ con tơi tảtinh thần xuống thấp, chẳng biết gì là hạnh phúc.

Đạo sư nói như thế. Khi ngài nói những lời này tất cả thính chúng đều xúc động sâu xa, và với tấm lòng sầu não, họ thẫn thờ một lúc và chảy nước mắt. Đây là chương thứ hai, bộc lộ mức độ cao nhất của buồn đau của cuộc đời.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31658)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10525)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11225)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12754)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10807)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16658)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10815)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22965)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12022)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11492)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10684)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12336)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11196)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10019)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10329)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11907)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10698)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12373)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9813)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11272)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13841)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9578)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12626)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9701)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10458)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10550)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10320)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9902)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11058)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12016)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10143)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10785)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9543)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9898)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8766)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9496)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14518)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8780)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12553)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10424)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9086)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10559)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9337)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8799)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10513)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9192)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8365)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12028)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9697)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10215)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10228)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19132)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9416)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8985)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9589)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9017)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14761)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10093)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8350)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8951)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8975)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8740)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9370)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14596)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9036)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8774)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9048)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10532)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8641)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9991)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24280)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10177)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11026)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8997)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9468)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8002)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9267)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15349)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10339)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9583)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17444)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21396)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12165)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10234)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19240)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26046)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7975)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14806)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10633)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11349)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9533)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18679)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12358)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11888)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10752)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13343)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10001)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9270)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9380)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15900)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant