Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương Ba: Ác Hạnh

01 Tháng Tư 201100:00(Xem: 7995)
Chương Ba: Ác Hạnh

CUỘC ĐỜI CỦA MILAREPA

Đại Thiền Giả Một Đời Thành Phật của Tây Tạng
Một Bản Dịch Mới Từ Tiếng Tây Tạng Bởi Lobsang P. Lhalungpa
Nguyên tác: The Life of Milarepa - A New Translation from the Tibetan 
by Lobsang P. Lhalungpa, Arkana, 1993 - Nhà xuất bản Thiện Tri Thức, 2000

PHẦN MỘT
CHƯƠNG BA
ÁC HẠNH

Bấy giờ Retchung nói, “Bạch Đạo sư, Ngài nói với chúng con rằng trước hết Ngài đã làm những hành vi xấu ác. Con xin hỏi, Thầy đã phạm vào chúng như thế nào ?”

“Thầy đã tích tập tội lỗi bằng cách đọc chú và gây ra những trận mưa đá.”

“Bạch Đạo sư, những trường hợp nào đã đưa Thầy đến việc đọc chú và gây ra mưa đá ?”

Rồi Đạo sư tiếp tục :

Khi học ở Mithogekha, một hôm thầy đi cùng thầy dạy đến dự tiệc cưới ở một thung lũng thấp vùng Tsa. Uống nhiều bia, không chỉ phần thầy rót cho ông mà mọi người khác đều rót cho ông, thầy dạy của thầy bị say. Ông bảo thầy về trước với những quà tặng ông đã nhận được. Thầy cũng say. Nghe những người hát, thầy cũng muốn hát và có một giọng tốt, thầy hát ca suốt dọc đường. Con đường đi ngang qua nhà thầy và thầy vẫn hát khi đi qua ngoài cửa. Trong nhà mẹ thầy đang nướng bánh và nghe tiếng thầy. “Cái gì thế?” Bà tự nói với mình, “Giọng này nghe như tiếng con ta. Nhưng làm sao nó có thể vui vẻ đến thế khi chúng ta quá bi đát như vầy?” Và không tin vào tai mình, bà nhìn ra ngoài. Vừa nhận ra thầy, bà kêu lên ngạc nhiên. Tay phải bà buông cái kẹp xuống; tay trái buông cái đánh bột xuống; và để mặc bột cháy, bà cầm một cây gậy và tay kia bốc một nắm tro. Bà chạy xuống cầu thang bằng những bước dài ra ngoài, và ném tro vào mặt thầy, quất vài gậy trên đầu thầy và la lớn, “Bố Mila Ngọn Cờ Trí Huệ ơi! Ông đã quên đứa con trai này của ông chưa? Nó chẳng xứng đáng gì với ông. Hãy nhìn số phận của mẹ con chúng tôi!” Rồi bà ngã xỉu.

Vào lúc đó đứa em thầy chạy đến và nói, “Anh ơi, anh đang làm gì thế? Điều gì xảy ra cho mẹ?” Và tiếng khóc của nó làm thầy sực tỉnh. Rồi thầy cũng rơi nhiều nước mắt. Anh em thầy xoa tay bà và kêu tên bà. Sau một chốc bà tỉnh lạiđứng dậy. Rồi nhìn chăm chú vào thầy bằng cặp mắt đầm đìa nước mắt, bà nói, “Từ khi chúng ta là những người bất hạnh nhất trên trái đất, có còn gì đáng để hát ca ? Khi mẹ nghĩ đến chuyện đó, người mẹ già nua của con tan tành trong tuyệt vọng và chỉ biết than khóc mà thôi.” Khi ấy ba mẹ con thầy bắt đầu khóc lớn. Thầy nói với bà, “Mẹ ơi, mẹ nói đúng. Chớ đau buồn quá lắm. Con sẽ làm bất cứ điều gì mẹ muốn.”

“Mẹ muốn con mặc chiếc áo choàng người lớn, cỡi trên một con ngựa, để cho bàn đạp ngựa xé toạc cổ những kẻ thù đáng ghét của chúng ta. Nhưng điều đó không thể được đâu. Nhưng con có thể làm hại chúng bằng những cách âm thầm. Mẹ muốn rằng, con đi học huyền thuật cùng với loại chú thuật hủy diệt, trước hết con hủy diệt chú thím kia, rồi những người làng và những hàng xóm đã đối xử độc ác với chúng ta. Mẹ muốn con nguyền rủa chúng và con cháu chúng cho tới đời thứ chín. Bây giờ, hãy xem con có thể làm điều đó không.”

Thầy trả lời, “Mẹ ơi, con sẽ cố gắng. Mẹ hãy sửa soạn lương thực và một món quà cho thầy lama.”

Để cho thầy học huyền thuật, mẹ thầy bán nửa miếng ruộng Thảm Lông Thú Nhỏ. Với tiền ấy bà mua một viên ngọc bích có tên là Sao Lớn Lấp Lánh, một con ngựa trắng được yêu chuộng trong vùng có tên là Senge Submay (Sư Tử Không Cương), hai kiện thuốc nhuộm và hai lố đường thô. Như vậy bà hoàn thành sự chuẩn bị cho chuyến đi của thầy.

Trước hết thầy đến Gungthang ở vài ngày trong một nhà trọ tên là Lhundup. Có năm thành viên dễ mến đến, nói rằng họ từ Ngari Došl và sắp đi đến vùng UŠ và Tsang để học tôn giáo và huyền thuật. Thầy đề nghị họ cho thầy đi theo vì thầy cũng muốn học huyền thuật. Họ chấp thuận. Thầy đưa họ về nhà mẹ thầy ở Gungthang và đối xử với họ như khách trong vài ngày.

Mẹ thầy âm thầm dặn với họ rằng, “Đứa con này của bác ý chí không mạnh mẽ, các cậu là những người đồng hành của nó, hãy khuyến khích và thúc dục nó trở thành thông thạo trong huyền thuật. Khi đó bác sẽ đền đáp thân tình và rộng rãi, chứ không quên ơn các cậu đâu.” Rồi chất hai bao thuốc nhuộm lên ngựa và đeo ngọc bích vào người thầy, bọn thầy lên đường.

Khi những người bạn đồng hành của thầy đang uống ly rượu tiễn biệt, mẹ thầy lại dặn dò thêm. Khó lìa bỏ thầy, đứa con trai độc nhất của bà, bà nắm chặt tay thầy và kéo riêng thầy ra. Mặt đầm đìa nước mắt và giọng nức nở, bà nói với thầy, “Trên tất cả mọi sự, hãy ghi tâm khắc cốt sự bất hạnh của mẹ con mình và hãy để cho những dấu hiệu huyền thuật của con biểu lộ ra trong làng chúng ta. Rồi hãy trở về. Pháp thuật của những anh kia không giống chúng ta đâu. Pháp thuật của họ là của những đứa con nít được nuông chiều, họ muốn có nó chỉ vì thích thú. Pháp thuật của chúng ta là của người đã chịu thảm kịch. Bởi thế một ý chí không chịu thuacần thiết. Nếu con trở về mà không thi triển được những dấu hiệu pháp thuật của con trên làng này thì bà mẹ già của con sẽ tự tử ngay trước mặt con.”

Thầy hứa điều này và thầy ra đi. Thầy làm mẹ vững lòng bằng tình thương với mẹ. Thầy cứ nhìn trở lại hoài, và rơi nhiều nước mắt. Và mẹ của thầy, người thương thầy đứt ruột, cứ trông theo bọn thầy bằng đôi mắt đầy nước mắt cho đến khi bọn thầy khuất dạng. Thầy tự hỏi có nên trở lại với mẹ thầy trong chốc lát. Thầy có cảm giác rằng thầy sẽ không bao giờ gặp lại bà. Cuối cùng khi hai bên không thấy nhau nữa, bà trở về làng, khóc sướt mướt.

Vài ngày sau, có tin đồn con trai bà Bạch Ngọc đã ra đi để học huyền thuật.

Theo con đường đến UŠ và Tsang, bọn thầy đến Yakde trong thung lũng Tsangrong. Tại đó thầy bán con ngựa và thuốc nhuộm cho một người rất giàu để lấy vàng cất trong người.

Sau khi qua sông Tsang Po, bọn thầy hướng đến UŠ. Trong một nơi tên là Tušhnlok Rakha (Chỗ nhốt cừu của Tušhn) bọn thầy gặp nhiều vị sư. Thầy hỏi họ có biết một vị thầy ở vùng UŠ thông thạo huyền thuật, bùa chú và mưa đá. Một nhà sư trả lời, “Ở Kyorpo, trong vùng Yarlung, có một lama tên là Yungton Trošgyel (Người Chinh Phục Làm Khiếp Sợ) họ Nyag. Ông có thần lực lớn lao về bùa, chú và pháp thuật.” Nhà sư này là đệ tử của ông. Thế là bọn thầy đi tìm Lama Yungton và đến Kyorpo vùng Yarlung.

Khi bọn thầy trình diện với lama, những bạn đồng hành với thầy chỉ dâng cúng những quà tặng tầm thường, còn thầy thì dâng cúng đủ thứ, vàng và ngọc bích. Và thầy nói, “Con còn dâng cúng thầy thân, ngữ, tâm của con nữa. Họ hàng, hàng xóm và một số người trong làng con không thể chịu nổi hạnh phúc của những người khác. Xin hãy thương xótban cho con loại huyền thuật mạnh mẽ nhất có thể trút lên làng con. Trong khi học, xin thầy thương mà cho con thức ăn và đồ mặc.” Vị lama mỉm cườitrả lời, “Ta sẽ nghĩ đến những điều con nói với ta.” Nhưng ông không dạy bọn thầy những bí mật thực sự của huyền thuật.

Khoảng một năm trôi qua, và tất cả những gì ông cho bọn thầy chỉ là một vài bùa chú để làm trời đất xung khắc và một hiểu biết hời hợt về những bùa chú và thực hành cụ thể. Những bạn đồng hành của thầy sửa soạn ra đi. Vị lama cho mỗi người một bộ quần áo vải mịn may khéo của Lhasa. Nhưng thầy không thỏa mãn. Những thực hành này không đủ sức làm phát sinh một hiệu quả nào đối với làng thầy. Nghĩ rằng mẹ mình sẽ tự tử nếu thầy về mà không có những chú thuậthiệu quả, thầy không chịu đi. Thấy thầy không sửa soạn về nhà, những người bạn đồng hành hỏi thầy, “Tin Lành, anh không đi về sao ?” Thầy trả lời, “Tôi chưa học đủ huyền thuật.” Họ đáp lại, “Những chú thuật này quyền năng cao tột nếu chúng ta cố gắng thành thạo chúng. Chính ngài lama nói rằng ngài không có cái nào khác nữa. Chúng tôi không còn nghi ngờ gì về điều ấy. Bạn cứ chờ đi xem thử ngài lama có cho bạn thêm cái gì nữa không !” Sau khi cám ơn vị lama và làm lễ từ giã, họ bỏ đi. Thầy cũng mặc cái áo vị lama cho và theo họ một nửa ngày. Sau đó bọn thầy chúc nhau sức khỏe, họ đi về quê hương.

Trên đường trở lại vị lama, thầy chất đầy phần trước áo với phân ngựa và lừa, phân bò và phân chó cho miếng ruộng của vị lama. Đào một cái hố trong miếng ruộng tốt của vị lama, thầy chôn số phân ấy vào đó. Vị lama đứng trên sân thượng thấy thầy làm như vậy, nói với vài đệ tử của ông, “Trong nhiều đệ tử đã đến với ta, không có ai đáng yêu hơn Tin Lành, và cũng sẽ không có ai giống như nó. Bằng chứng là sáng nay nó không nói lời từ giã với ta và bây giờ nó trở lại. Khi nó đến đây lần đầu, nó nói với ta rằng bà con, hàng xóm và người trong làng nó không thể chịu nổi hạnh phúc của những người khác. Nó cầu xin ta cho học huyền thuật và dâng cúng thân, ngữ, tâm của nó cho ta. Thật là kiên trì ! Nếu câu chuyện nó kể là thật, thì quả là một điều đáng tiếc nếu không cho nó những bí mật của huyền thuật.”

Một trong những vị sư lập lại những lời này cho thầy. Thầy vui vẻ nghĩ thầm, “Rốt rồi cũng ổn thỏa, mình sẽ được những bí mật của huyền thuật.” Và thầy đến vị lama. Ngài nói với thầy, “Tin Lành, tại sao không về nhà ?” Rồi thầy trao lại bộ áo quần vị lama đã cho thầy. Thầy đặt đầu mình dưới chân ngài và nói, “Lama quý báu, chúng con có ba người, mẹ con, em con và con. Chú và thím của con, một vài người hàng xóm và một số người làng đã trở thànhkẻ thù của gia đình con. Qua sự bạc đãi chúng con không đáng để có, họ dồn chúng con vào thảm cảnh. Con không có sức mạnh để tự bảo vệ mình. Bởi thế tại sao mẹ của con gởi con đi học huyền thuật. Nếu con trở về nhà mà không có một dấu hiệu nào xuất xứ từ những nỗ lực của con, mẹ con sẽ tự tử trước mắt con. Chính là để bà khỏi tự hủy hoại mà con đã không bỏ đi. Đó là lý do tại sao con cầu xin thầy những bí mật của huyền thuật.”

Nói xong, thầy khóc. Vị lama hỏi, “Những người làng hại bọn con như thế nào ?” Nức nở, thầy kể cha thầy, Mila Ngọn Cờ Trí Huệ đã chết như thế nào, và sau cái chết của ông, chú và thím đã làm ba mẹ con thầy tan nát trong thảm cảnh như thế nào. Rồi nước mắt rơi từng giọt, vị lama nói, “Nếu điều con nói là đúng, đây là một hoàn cảnh thương tâm. Huyền thuật mà ta thực hành sẽ có tác dụng. Nhưng chúng ta không phải hấp tấp. Để có được huyền thuật ấy, ta đã dâng cúng những của cải vàng và ngọc bích từ Ngari Korsum phía tây; số lượng lớn trà, lụa, áo quần từ ba vùng núi xứ Kham phía đông; hàng trăm và hàng ngàn ngựa, trâu yak và cừu từ Jyayal, Dakpo và Kongpo phía nam. Nhưng chỉ có con là dâng cúng cho ta thân, ngữ, tâm của mình. Ta sẽ kiểm chứng điều con đã nói ngay bây giờ.”

Sống với vị lama lúc ấy là một nhà sư nhanh như ngựa và khỏe như voi. Vị lama gởi ông đến làng tôi để kiểm chứng câu chuyện của tôi. Nhà sư nhanh chóng trở về và nói, “Lama quý báu, Tin Lành đã nói sự thật. Anh ta cần được dạy cho huyền thuật.”

Vị lama nói với thầy, “Nếu ta đã dạy liền cho con những huyền thuật như vậy, ta sợ rằng con với tính bướng bỉnh của mình sẽ làm ta hối tiếc. Nhưng bây giờ, vì con đã thành thật, con phải đi đến một vị thầy khác để học thêm. Ta có một chú thuật từ sự thờ cúng Dza Mặt Màu Hạt Dẻ(1) mà thần chú Hum(2) của ngài gây nên cái chết trong khi thần chú Paht(3) gây nên bất tỉnh.

“Trong vùng Nub Khulung ở Tsangrong có một lama tên là Yošnten Gyatso (Biển Đức Hạnh) họ Khulung, ông vừa là một đại y sĩ vừa là một nhà đại huyền thuật. Ta đã cho ông chú thuật bí mật của ta. Và để đổi lại ông dạy ta làm thế nào để gọi mưa đá rơi xuống bằng đầu một ngón tay. Sau khi chỉ ta điều đó, chúng ta trở thành bạn thân và người hợp tác. Bây giờ, người nào đến ta để học huyền thuật, ta phải gởi đến cho ông. Người nào đến ông để học gây ra mưa đá, ông phải gởi đến cho ta. Hãy đi với con của ta và kiếm ông ấy.”

Con trai trưởng của vị lama là Darma Ouangchuk (Tuổi Trẻ Thần Lực). Ngoài lương thực, vị lama cho bọn thầy một vóc vải mịn và vải len từ Lhasa, một vài quà tặng nhỏ và một lá thư. Đến Nub Khulung, bọn thầy gặp vị lama trẻ. Mỗi người dâng cúng vị ấy những quà tặng đã mang theo và lá thơ từ vị lama. Thầy cẩn thận kể cho ông nghe mọi biến cố của câu chuyện và khẩn khoản xin ông dạy cho thầy huyền thuật. Vị lama trả lời, “Bạn tôi là một người bạn trung thànhlời nói chân thật. Ta sẽ dạy cho con mọi loại huyền thuật. Để làm việc này hãy dựng một cái cốc bên gờ núi này, con sẽ không có ai hẻo lánh đến.”

Bọn thầy xây một cái cốc trên nền đất, làm bằng những xà chắc đặt cạnh nhau. Bọn thầy bao quanh nó bằng một hàng rào bằng đá to như con trâu yak, không có lối mở ra để không có ai có thể nhìn vào cốc hay có cách tấn công nó. Rồi vị lama cho bọn thầy chú thuật.

Sau khi thầy luyện chú thuật trong bảy ngày, vị lama đến và bảo, “Thường thì bảy ngày là đủ, trường hợp này như vậy là đủ rồi.” Thầy trả lời, “Vì huyền thuật của con phải tác động trong một khoảng cách xa, con xin thầy cho tiếp tục thêm bảy ngày nữa.” Vị lama trả lời, “Tốt lắm, tiếp tục đi.”

Vào chiều ngày thứ mười bốn, vị lama trở lại và nói, “Đêm nay sẽ có một dấu hiệu quanh mạn đà la báo hiệu huyền thuật xảy ra.” Và cũng đêm đó những thần hiện ra, mang cho thầy cái mà thầy yêu cầu : Những đầu lâu và trái tim đẫm máu của ba mươi lăm người. Họ nói, “Trong mấy ngày nay ngươi đã không ngừng kêu gọi chúng ta. Đây là cái mà ngươi muốn.” Và họ chất những cái đầu quanh mạn đà la. Sáng hôm sau vị lama trở lại và nói, “Trong những người phải hủy diệt, có hai người còn sót. Họ có cần hủy diệt hay tha ?” Đầy vui mừng thầy nói, “Con xin thầy để cho họ sống để họ biết được sự trả thùluật pháp của con.”

Như thế còn chú và thím không bị hại.

Bọn thầy dâng cúng các thần một lễ tạ ơn và bọn thầy bỏ khỏi cốc. Ngày nay cái cốc của bọn thầy vẫn còn ở Khulung.

Khi ấy thầy lấy làm lạ bùa chú đã ứng nghiệm như thế nào nơi làng Kya-Nyatsa của thầy.

Có một buổi tiệc cưới của con trai trưởng của ông chú của thầy. Những đứa con trai và con dâu của chú đến trước tiên cùng với những người ghét mẹ con chú, tất cả là ba mươi lăm người.

Những khách mời khác thân với gia đình thầy đang vừa đi vừa nói chuyện trên đường, “Khi ông chủ giả trở thành ông chủ, thì ông chủ thật bị quẳng cho chó, đúng như tục ngữ nói và như những người ác tâm này chứng tỏ. Nếu huyền thuật của Tin Lành không hiệu nghiệm đối với họ, thì thần lực của các thần hộ pháp cũng phải được cảm nghiệm thôi.” Họ cùng nhau đi về phía ngôi nhà.

Chú và thím đã đi ra ngoài để thảo luận sắp xếp bữa ăn và những lời sắp nói với khách. Vào lúc ấy một người từng là tớ gái của gia đình thầy hiện đang ở với chú thím đi ra xách nước. Chị ta không thấy con ngựa nào cả trong chuồng mà lại thấy đủ thứ bò cạp, nhện, rắn, cóc... Chị thấy một con bò cạp to bằng con trâu yak đang dùng càng kẹp những cột nhà giật sập xuống. Thấy thế chị khủng khiếp bỏ chạy, khó khăn lắm mới ra khỏi sân. Những con ngựa chồm lên những con lừa và lừa đá lại ngựa, chúng tông loạn xạ vào những cây cột nhà rồi nhà sập. Dưới đóng gạch ngói đổ nát, những người con trai, con dâu của ông chú và những người khách mời khác, tất cả ba mươi lăm người, đã chết. Trong nhà đầy cả xác người chôn lấp trong bụi khói.

Nghe tiếng kêu khóc của mọi người, Peta em thầy, chạy nhanh đến mẹ, “Mẹ ! Mẹ ! Nhà ông chú sập rồi và nhiều người chết. Đến mà coi.”

Mẹ thầy kêu lên vui sướng, đứng dậy chạy ra xem. Bà thấy ngôi nhà của chú tôi chỉ còn là một đám mây bụi và nghe tiếng la hét của dân làng. Bà ngạc nhiên sung sướng, cột một mảnh vải vào một cây gậy dài, hươi lên trong không khí và kêu lớn, “Vinh quang cho các ngài, các thần, các lama và Tam Bảo ! Hỡi dân làng và hàng xóm, có phải Mila Ngọn Cờ Trí Huệ có một đứa con trai không ? Ta, Bạch Ngọc, ăn mặc rách rưới và tồi tệ, các người có thấy là để nuôi con ta như thế nào không ? Xưa kia, chú thím đã nói với mẹ con ta, “Mấy đứa bây, nếu có nhiều người thì hãy đánh nhau với chúng ta ; còn nếu ít, hãy ném ra chú thuật.” Chúng ta ít người mà chiến thắng nhờ huyền thuật thì vẫn hơn chúng ta đông người mà thắng trong đánh nhau. Hãy nghĩ đến những người nằm trên sàn nhà, hãy nghĩ đến những kho tàng chôn vùi dưới đó và gia súc trong chuồng. Ta đã sống đủ để thấy và say sưa trước cảnh tượng này do con trai ta đem lại. Hãy tưởng tượng hạnh phúc của ta như thế nào từ nay trở đi !”

Mọi người trong nhà họ đều nghe tiếng la báo thù của mẹ thầy. Một số người trong bọn họ nói, “Bà ta có lý.” Những người khác lại nói, “Bà ta có thể có lý, nhưng sự trả thù của bà quá độc ác.”

Nghe được những người ấy bị giết bằng thần lực nào, những người có thân nhân bị chết họp nhau lại và nói, “Không chỉ thỏa mãn khi gây ra thảm họa này, bây giờ bà ta còn vui sướng với nó. Thế là quá lắm rồi. Hãy hành hình bà ta và moi tim bà ta ra.” Những người già cả thì nói, “Giết bà có ích gì ? Cái điều xảy ra cho chúng taviệc làm của thằng con bà. Các ngươi phải trước hết tìm ra thằng con bà và giết nó. Sau đó sẽ dễ dàng hơn để giết bà mẹ.” Nói thế, họ đi đến một đồng ý với nhau.

Ông chú khi nghe nhận xét này nói rằng, “Giờ đây những đứa con trai và con dâu của tôi đã chết, tôi cũng chẳng còn sợ chết nữa.” Và ông ta chạy đi tìm giết mẹ thầy. Nhưng dân làng giữ ông lại, nói rằng, “Chính vì ông đã không giữ gìn lời nói mà thảm họa này đổ lên đầu chúng tôi. Nếu ông giết bà mẹ trước khi giết đứa con, chúng tôi sẽ chống lại ông.” Họ không cho chú thầy cơ hội để hành động. Rồi người làng bàn tính âm mưu giết thầy.

Cậu thầy đến mẹ thầy và nói, “Sau những lời nói và hành động của em ngày hôm qua, những người làng sẵn sàng giết em và con trai của em. Tại sao em lại la lớn việc báo thù của em vậy ? Chú thuật tác hại như thế chưa đủ sao ?” Và ông khiển trách bà nặng nề. Mẹ thầy trả lời, “Bất hạnh không trút lên anh. Em hiểu anh muốn nói gì, nhưng cái cách họ ăn cướp tài sản của gia đình em thì khó mà giữ im lặng được.” Và không nói thêm gì nữa, bà khóc. Anh bà nói tiếp, “Đúng vậy. Em có lý. Nhưng những kẻ sát nhân có thể tới, hãy khóa cửa lại, ở trong nhà.” Nói xong, ông bỏ đi. Và mẹ thầy, khóa cửa ở trong nhà, bắt đầu trù tính phải làm gì.

Trong khi đó, người tớ gái của chú thầy, trước kia giúp việc trong gia đình thầy, nghe họ bàn tính với nhau. Vì sự quyến luyến với gia đình thầy, chị không nỡ để cho việc ấy xảy ra và bí mật nói với mẹ thầy cuộc họp của người làng đã quyết định như thế nào, khuyên bà hãy chăm lo cho mạng sống của con bà. Mẹ thầy thầm nghĩ, “Quyết định này làm u ám niềm vui của ta vào lúc này.” Bà bán nửa miếng đất Thảm Lông Thú Nhỏ còn lại, được bảy lượng vàng. Vì không có người lân cận nào bà có thể nhờ đem đến cho thầy, và không có người đưa thư từ nơi khác đến, mẹ thầy nghĩ bà sẽ tự mình ra đi để mang cho thầy đồ dự trữ và khuyên bảo thầy.

Lúc đó có một thiền giả từ tỉnh UŠ trở về từ một cuộc hành hương Nepal, đến trước cửa nhà để khất thực, và mẹ thầy hỏi về ông. Thấy ông có thể làm một người đưa tin, bà nói với ông, “Hãy ở đây vài ngày, tôi có một đứa con trai đang ở UŠ và Tsang và tôi cần gởi cho nó vài tin tức. Xin hãy rộng lượng đem đến cho nó.”

Trong mấy ngày đó, mẹ thầy tiếp đãi vị ấy trọng hậu. Rồi thắp lên một ngọn đèn bơ, bà cầu nguyện, “Nếu ý muốn của con được chấp nhận, nguyện lama của con tôi và những vị thần che chở khiến cho ngọn đèn cháy lâu không tắt. Nếu không được chấp nhận, nó sẽ chóng tắt.” Ngọn đèn cháy suốt một ngày một đêm. Mẹ thầy tin rằng ước nguyện của bà sẽ được đáp ứng, nói với vị hành hương, “Thưa thiền giả, để du hành khắp nước, áo quần và giày là rất quan trọng.” Và bà biếu ông da và chỉ để vá lại những đôi giày. Tự bà vá lại áo choàng đã sờn rách của ông. Âm thầm, bà may bảy lượng vàng vào trong áo choàng, trên đó may một miếng vải đen. Bà thêu trên miếng vải đó những ngôi sao tượng trưng chòm sao Thất Tinh bằng chỉ trắng thô để cho bên ngoài không thể thấy. Rồi bà biếu tặng ông đầy đủ, gởi gắm cho ông lá thư niêm kín bằng chữ bí mật và để ông ra đi.

Sau đó mẹ thầy nghĩ, “Vì ta không biết những hàng xóm định làm gì, ta phải có dáng vẻ đe dọa.” Bà nói với Peta, “Con hãy nói với mọi người là vị thiền giả đó đã mang một lá thư của anh con đến.”

Đây là lá thư mà mẹ thầy viết như thể nó là của thầy :

“Chắc chắn mẹ và em con đều mạnh khỏe và đã thấy những dấu hiệu huyền thuật đã xảy ra. Nếu còn những người xóm giềng nào còn thù hận mẹ, hãy gởi cho con tên của họ và tên của gia đình họ. Bằng chú thuật, con dễ dàng giết họ như ném một nắm muối gạo vào khoảng không. Như thế con sẽ hủy diệt họ cho đến thế hệ thứ chín. Mẹ và em thân mến, nếu người làng còn xung đột với mẹ và em, hãy đến đây với con. Con sẽ hủy hoại mọi dấu vết trong cái làng này. Dù con đang ở trong thất, con dư dả và có đồ dự trữ dư dùng. Chớ có lo cho con.”

Viết xong, mẹ thầy xếp lá thư. Bà đưa nó trước tiên cho anh bà và bạn bè của ông, ông đưa nó cho mọi người xem. Kết quả là họ đều thay đổi thái độ và bỏ ý định giết ba mẹ con thầy. Họ trả lại miếng ruộng Tam Giác Phì Nhiêu từ ông chú thầy về cho mẹ thầy.

***

Khi ấy vị thiền giả đi tìm kiếm thầy. Biết rằng thầy đang ở Nub Khulung, ông kiếm ra thầy. Ông đưa cho thầy lá thư và đứng qua một bên để đọc.

“Mẹ mong rằng Tin Lành con được khỏe mạnh. Ước mong của bà mẹ già của con muốn có một đứa con trai thật sự đã được thành và dòng dõi cha con, Mila Ngọn Cờ Trí Huệ đã được bảo đảm. Những dấu hiệu huyền thuật của con đã xuất hiện trong làng và ba mươi lăm người đã bị giết trong ngôi nhà sụp đổ. Vì điều đó, người dân địa phương có ác ý với hai mẹ con ở đây, nên con cần phải làm cho họ một trận mưa đá lớn. Lúc đó thì những ước nguyện cuối cùng của mẹ già của con sẽ thành hiện thực. Xóm giềng họ nói rằng họ sẽ tìm ra con và sau khi giết con thì sẽ giết mẹ. Để mẹ con chúng ta được an toàn, hãy bảo vệ cuộc đời chúng ta với sự chăm sóc thận trọng nhất. Nếu đồ dự trữ của con hết, hãy nhìn vào vùng hướng về phía bắc, trong đám mây đen, có chòm sao Thất Tinh sẽ xuất hiện. Dưới đó là bảy căn nhà của những người anh em cô cậu của con. Nơi đó con sẽ tìm thấy mọi đồ dùng con muốn. Hãy lấy mấy cái đó. Nếu con không hiểu, hãy hỏi không ai khác ngoài vị thiền giả này sống trong vùng đó.”

Thầy không hiểu ý nghĩa trong lá thơ. Thầy nhớ quê hương và mẹ. Vì thầy đang rất cần lương thực, mà không biết bà con nói trong thơ ở vùng nào, thầy rơi nước mắt. Thầy hỏi vị thiền giả, “Vì ông biết vùng này, các em con cô cậu của tôi ở đâu ?” Thiền giả trả lời, “Trong đồng bằng Ngari.”

“Ông không biết những vùng khác sao ? Vùng của ông là ở đâu ?”

“Ta biết nhiều vùng khác, nhưng ta không biết những vùng nào đứa em cô cậu của chú ở. Ta đến từ tỉnh UŠ.”

“Vậy hãy ở đây một lát, tôi sẽ về ngay.”

Thầy đến trình cho vị lama xem lá thơ và nhờ ông giải thích. Vị lama xem kỹ và nói với thầy, “Này Tin Lành, mẹ của con đầy thù hận. Dù sao cái chết của bấy nhiêu con người bà vẫn còn muốn con làm mưa đá. Ai là những anh em cô cậu của con ở phía bắc ?” Thầy trả lời, “Con chưa hề nghe về họ. Chỉ có lá thơ này nói về họ. Con đã hỏi vị thiền giả nhưng ông không biết gì.”

Vợ vị lama, bà có dấu hiệu của những dakini vĩ đại, đọc lớn lá thơ và nói với thầy, “Hãy mời vị thiền giả.”

Khi thiền giả đến, người vợ của vị lama đốt một ngọn lửa lớn và đưa cho ông bia tuyệt ngon. Rồi lấy cái áo choàng khỏi lưng thiền giả, bà khoác nó vào và nói, “Đây là một cái áo choàng tốt để chu du chỗ này chỗ khác.” Bà đi tới đi lui một lát, rồi lên sân thượng của ngôi nhà. Ở đó bà lấy vàng ra khỏi áo choàng, may lại miếng vải như trước và trở lại, khoác cái áo choàng lên lưng thiền giả.

Sau khi mời thiền giả bữa ăn tối, bà dẫn ông đến phòng của ông và nói, “Hãy đi và nói với Tin Lành đến trình diện ngài lama.” Thầy đến và bà trao cho bảy lượng vàng. Thầy hỏi, “Số vàng này từ đâu đến ?” Vợ ngài lama trả lời, “Nó nằm trong áo choàng của thiền giả. Tin Lành ạ, con có một bà mẹ kỹ lưỡng. Vùng hướng về phía bắc nơi mặt trời không chiếu sáng nghĩa là cái áo choàng của thiền giả mà mặt trời không thể xuyên qua. Đám mây đen nghĩa miếng vải đen vá trên áo. Chòm sao Thất Tinh sẽ xuất hiện là những ngôi sao thêu bằng chỉ trắng. Và bên dưới, bảy căn nhà của những người anh em cô cậu của con là bảy lượng vàng. Nếu con không hiểu, hãy hỏi không ai khác ngoài vị thiền giả này sống trong vùng đó nghĩa là nếu con không hiểu, bởi vì vàng nằm trong áo choàng của thiền giả, hãy chớ có tìm ở đâu khác.”

Vợ vị lama nói như vậy. Và vị lama nói, “Này mình ! Họ nói rằng bà rất láu lỉnh. Và quả là rất đúng.” Rồi ông cười.

Sau đó thầy đưa cho thiền giả một chỉ vàng, ông ta hài lòng. Dâng tặng sư mẫu bảy chỉ. Rồi dâng cúng vị lama ba lượng và nói với ngài, “Thầy thấy bà mẹ già của con còn xin làm mưa đá. Xin thầy dạy cho con.”

Vị lama trả lời, “Nếu con muốn làm mưa đá, hãy đi tìm Yungton Trošgyel (Người Chinh Phục Làm Khiếp Sợ) họ Nyag.” Và ông cho thầy một lá thơ và vài đồ biếu tặng.

Thầy rời làng Kyorpo miền Yarlung. Khi đến trình diện vị lama, thầy để dưới chân ngài ba lượng vàng, bức thơ vàø những quà tặng. Thầy nói với ngài tại sao thầy muốn làm mưa đá. Ông hỏi thầy, “Con đã thành công trong việc làm được huyền thuật chưa ?”

Thầy trả lời, “Con hoàn toàn thành công, và với huyền thuật ba mươi lăm người đã bị giết. Bấy giờ có thêm lá thơ này yêu cầu làm mưa đá. Xin thầy dạy cho con.”

Ông đáp, “Tốt lắm, được thôi.” Và vị lama cho thầy mật chú. Thầy đến trong cái cốc cũ của thầy để thực hiện những nghi lễ.

Bắt đầu ngày thứ bảy, một đám mây bao phủ cái cốc. Sấm chớp nổ vang, và có tiếng nói của Dza Mặt Màu Hạt Dẻ. Điều này làm thầy tin rằng mình có thể cầu mưa đá bằng đầu ngón tay của mình.

Từ đó trở đi, vị lama thường hỏi thầy, “Để làm mưa đá, hiện giờ lúa cao bao nhiêu trong làng của con ?”

Và thầy trả lời, “Nó đã mọc mầm lên kha khá.”

thời gian sau, “Nó đã đủ cao để che kín con chim câu xanh.”

Rồi, “Và bây giờ lúa thế nào rồi ?”

Thầy trả lời, “Lúa mạch bắt đầu cong xuống.”

“Đúng lúc để làm mưa đá rồi đó.”

Ông cho một người đưa tin đi với thầy, người này đã từng ở làng thầy. Giả trang thành những nhà sư du phương, bọn thầy lên đường.

Năm ấy lúa ngoài đồng được mùa chưa từng có. Có một luật lệ trong làng, cấm gặt lúa riêng rẽ tùy thích. Khi bọn thầy đến, lúa đã chín vàng hôm sau thì gặt. Thầy ở trên vùng đất cao.

Sau khi thầy tụng đọc những thần chú, một đám mây nhỏ chỉ lớn bằng con chim sẻ bay đến. Thầy thất vọng. Thầy kêu gọi tên những vị thần. Lời cầu xin của thầy căn cứ trên những đối xử tàn bạo mà người làng đã bắt gia đình thầy chịu đựng. Thầy ném cái áo choàng và bắt đầu kêu khóc. Bấy giờ, những đám mây đen khổng lồ thình lình tụ lại trong bầu trời. Trong phút chốc trận mưa đá rơi xuống mùa màng và phủ trùm toàn bộ thung lũng, ngập đến ba viên gạch. Những khe suối mới tạo thành trên núi. Thấy mùa màng mất sạch, dân làng khóc.

Thình lình có một trận gió lớn kèm với mưa. Thầy và người bạn đồng hành lạnh quá, bèn vào trong một cái hang cửa hướng về phía bắc. Ở đó bọn thầy đốt lửa lên.

Vài người làng đang đi săn để lấy thịt làm lễ tạ cho vụ mùa. Họ nói, “Cái thằng Tin Lành này đã gởi cho chúng ta bất hạnh chứ chẳng có ai khác làm được. Nó đã tàn sát bao nhiêu người ! Bây giờ với tài nghệ của nó, chúng ta không còn thấy một chút gì cái mùa màng đẹp tốt của chúng ta nữa. Nếu nó rơi vào tay chúng ta, chúng ta sẽ dứt trái tim còn đập của nó ra. Và mỗi người chúng ta sẽ ăn một miếng thịt, uống một giọt máu của nó.”

Họ nói thế bởi vì vết thương trong lòng họ thì không thể chữa lành. Khi nói chuyện với nhau như vậy, vừa đi xuống núi, họ đi ngang cái hang. Một người già nói, “Im nào ! Im nào! Nói nhỏ thôi! Khói từ hang ra. Ai thế?”

“Chắc là thằng Tin Lành. Nó không thấy chúng ta. Nếu bọn đàn ông trong làng chúng ta không giết nó sớm, chắc chắn nó sẽ tàn phá cả vùng.” Nói thế họ trở lui.

Bạn đồng hành của thầy nói với thầy, “Hãy rời đây trước tôi. Tôi sẽ giả bộ tôi là bạn. Tôi sẽ nói với họ khi rời khỏi đây rằng việc này là sự trả thù của tôi. Chúng ta sẽ gặp lại bốn ngày sau ở quán Dingri về hướng tây.

Tự biết sức mạnh của mình, anh ta ở lại một mình không sợ hãi. Lúc đó, thầy mong được thấy mẹ một lần nữa, nhưng vì sợ những kẻ thù, thầy thoát nhanh và chạy đến Nyanang. Bị chó cắn vào chân, thầy không thể đến đúng hẹn.

Bạn đồng hành của thầy, dù bị những người làng vây quanh, cũng phá được vòng vây và chạy thoát. Họ càng rượt đến gần anh, anh càng chạy nhanh hơn nhưng khi họ tụt lại anh lại buông lỏng bước chân. Họ bắn tên về phía anh, và anh ta ném lại những viên đá lớn.

Anh la lên cho họ nghe, “Ta sẽ đặt một lời nguyền trên bất kỳ ai dám chống lại ta. Ta đã giết chết bao nhiêu người để báo thù. Và bây giờ cả vụ mùa đẹp đẽ đã biến mất. Đây chẳng phải là việc báo thù của ta sao? Thế đấy, nếu các người không tử tế với mẹ và em của ta, ta sẽ đặt một lời nguyền lên toàn bộ vùng này từ chỗ cao nhất đến chỗ thấp nhất của thung lũng. Những người chưa bị giết sẽ thấy dòng họ của họ bị hủy diệt cho đến đời thứ chín. Nếu sự chết chóc tiêu điều không đánh vào vùng này, thì đó sẽ là lỗi của tao. Hãy đợi mà xem! Hãy đợi mà xem!

Nói thế, anh bỏ đi. Và kinh hãi, họ bắt đầu đổ lỗi cho nhau, “Đây hoàn toàn do lỗi của anh, đây hoàn toàn là do anh.”

Họ cãi nhau trong khi trở về làng.

Bạn đồng hành của thầy đến Dingri trước thầy. Anh hỏi chủ quán có ai giống một thiền giả đến đây chưa. Chủ quán trả lời, “Ông chưa tới. Nhưng tất cả những người tự nhận là thiền giả các anh đều rất thích uống. Trong làng bên có một quán bia. Hãy đến đó. Nếu anh không có chén, tôi có thể cho anh mượn.” Và anh mượn của ông ta một chén gỗ sâu và xám như mặt của Thần Chết Yama.

Đem cái chén theo, anh vào quán và thầy ngồi ở sau chót đám khách, anh đến ngồi bên cạnh thầy. Anh nói, “Tại sao không đến chỗ hẹn vào hôm qua?”

“Hôm qua tôi đi khất thực. Một con chó cắn vào chân tôi và tôi không thể đi nhanh. Nhưng chẳng có gì phải lo cả.”

Ra khỏi quán bia, bọn thầy đến Kyorpo vùng Yarlung.

Vị lama nói với bọn thầy, “Tốt, cả hai người đã thành công!”

“Không có ai đến đây trước chúng con. Ai đã nói cho thầy chuyện ấy ?”

Vị lama trả lời, “Các thần đã đến, mặt họ sáng như trăng rằm. Ta đã cảm tạ họ.”

Nói xong, vị lama tỏ ra hài lòng.

Đây là cách thầy đã tích tập những ác hạnh từ sự trả thù những kẻ thù của thầy.

Đạo sư nói như thế. Đây là chương thứ ba, sự tiêu diệt những kẻ thù. Đó là công việc của Milarepa trong thế gian.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31305)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10452)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11140)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12624)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10735)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16471)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10739)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22766)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 11911)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11413)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10585)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12251)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11097)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 9937)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10239)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11793)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10612)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12255)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9706)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11178)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13749)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9508)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12524)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9608)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10340)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10434)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10208)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9801)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 10982)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 11934)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10077)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10696)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9461)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9816)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8695)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9419)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14436)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8703)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12452)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10329)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 8981)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10473)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9237)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8710)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10419)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9070)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8287)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 11923)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9629)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10146)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10166)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 18968)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9335)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8912)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9493)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 8931)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14657)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10021)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8271)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8820)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8883)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8662)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9257)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14452)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 8958)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8673)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 8963)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10438)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8546)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9912)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24143)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10081)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 10947)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8911)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9382)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7938)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9176)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15238)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10248)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9476)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17279)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21216)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12065)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10155)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19098)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 25831)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7903)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14664)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10554)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11267)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9437)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18484)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12260)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11794)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10611)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13244)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9898)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9193)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9299)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15722)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant