Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 1: Chuẩn bị cho việc tiếp nhận lễ quán đỉnh

09 Tháng Tư 201100:00(Xem: 9867)
Phần 1: Chuẩn bị cho việc tiếp nhận lễ quán đỉnh

KALACHAKRA VẤN ĐÁP PHẦN 1:
CHUẨN BỊ CHO VIỆC TIẾP NHẬN LỄ QUÁN ĐỈNH

Question Sessions with H. H. the Fourteenth Dalai Lama Concerning the Kalachakra Initiation
Dharamsala, India, November 5, 1983; August 13, 1984; January 22, 1985; March 25, 1985; March 26, 1986
Anh dịch: Alexander Berzin - Chuyển ngữ: Tuệ Uyển - 02/01/2011

blank

MỤC LỤC
:
1- Những Chủ Đề Giới Thiệu cho việc Thọ Nhận Lễ Quán Đỉnh
2- Shambhala
3- Tiên Đoán Về Sự Xâm Lăng Của Những Người Hung Tợn
4- Học Tập Về Lễ Quán Đỉnh Và Những Thệ Nguyện Trước Khi Nhận Lễ Quán Đỉnh
5- Tham Dự Như Những Người Quán Sát Đơn Thuần

1- Những Chủ Đề Giới Thiệu cho việc Thọ Nhận Lễ Quán Đỉnh

 

BERZIN: Khi tôi sang phương Tây năm tới để giới thiệu về lễ quán đỉnh Giáo Pháp Thời Luân, điều gì lợi lạc để giúp mọi người chuẩn bị? Điều gì hữu ích cho mọi người biết như căn bản cho việc tham gia lễ quán đỉnh?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động. Sau đấy, vì lễ quán đỉnh là quan trọng và vì tiếp nhận lễ quán đỉnh, giữ gìn thệ nguyệncăn bản, và trước điều này rèn luyện trong những lộ trình thông thường của bồ đề tâm và khái niệm đúng đắn về tính không là cực kỳ thiết yếu; sẽ rất tốt nếu ông giải thích một ít về những điều này.

Thêm nữa, nếu ông còn thời gian, hãy giảng về cung cách thông thường của việc tiến hành với vô thượng du già, từng bước một, và những đặc trưng mà nó chia sẻ với giáo pháp tương tục (tantra) một cách phổ quát. Không có một nền tảng và sự chuẩn bị tốt, sẽ không có gì trở nên liên hệ với tantra. Tôi cũng sẽ giới thiệu về những điều này như mở đầu.

BERZIN: Còn về việc diễn tả lịch sử của Giáo Pháp Thời Luân và sự lan truyền của nó đến Ấn ĐộTây Tạng thì thế nào?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Điều ấy tốt lắm.

 

2- Shambhala

 

blank

SHAMBHALA

 

BERZIN: Có lợi ích không khi giải thích về Shambhala?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Chắc chắn rồi. Ông nghĩ nó ở đâu?

BERZIN: Tôi hoàn toàn không biết. Serkong Rinpoche nói rằng nó không phải ở trên Trái Đất, nhưng có lẻ là ở một thế giới khác nơi của những đĩa bay. Đấy là bởi vì luận điển nói về những người đến từ Shambhala trên những phương tiện máy bay. Họ đến từ Shambhala để xem xét tình hình của chúng ta. Một vài nền văn hóa trong những người bản địa của Nam Mỹ và Nam Phi châu cũng có những huyền thoại như thế, những khách viếng thăm như thế đã đến từ xa xưa ngoài không gian và dạy họ về việc làm lịch cùng thiên văn học. Có lẻ họ đã đến từ Shambhala.

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Theo quan điểm của Phật Giáo, Shambhala là một cõi Tịnh Độ như Cực Lạc Tây Phương, cõi Đâu Suất, và Khachari (cõi Dakini)

BERZIN: Shambhala không phải là một thế giới con người chứ?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Nếu đấy là một cõi tịnh độ, thì không phải là cõi trời (god realm). Có một số tịnh độcon người có thể đến. Ngay cả những người không phải Phật tử cũng có thể đến được và một khi ở đấy, họ sẽ theo đuổi con đường tâm linh.

BERZIN: Shambhala có bao gồm thế giới luân hồi hay niết bàn không? Serkong Rinpoche nói nó là một thế giới luân hồi.

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Dường như nó ở trong thế giới luân hồi. Tuy thế, một khi đến cõi luân hồi này, tâm thức và trái tim con người tự nhiên phát triển một cách nhanh chóng hơn. Chắc chắn giống như thế giới nhân gian trong cõi luân hồi lưu chuyển nơi mà những người đặc biệt đã xây dựng một kho tàng to lớn của năng lực tích cực (công đức, khả năng tích cực).

BERZIN: Vậy thì nó không nhất thiết là một cõi tịnh độ, nhưng chỉ là tương tự như một cõi tịnh độ?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Nó không phải là một cõi tịnh độ trong ý nghĩa của một thế giới chư thiên. Nó là một thế giới con người, nhưng chắc chắn cũng là một cõi tịnh độ.

BERZIN: Nó không ở trên Trái Đất?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Nó không ở trên Trái Đất. Nếu thế, chúng ta có thể tìm ra nó. Tuy nhiên, nó chắc chắn ở trong vũ trụ, nhưng chúng ta cần nghiệp thanh tịnh để đến đấy. Tôi tự hỏi, nếu chúng ta có thể thật sự đến đấy một cách trực tiếp bằng một cố phương tiện cơ giới nào đấy, như phi thuyền. Tại sao tôi nghĩ như thế, tôi không biết. Nhưng, những gì mà Đức Ban Thiền Lạt Ma thứ ba, Palden - yeshey nói làm cho vấn đề hơi phức tạp một chút. Trong ‘Cẩm Nang Hướng Dẫn Con Đường đến Shambhala’, ngài đã viết rằng, nếu quý vị thực hiện một khóa tu thiền quán mãnh liệt, rồi thì quý vị có thể thật sự gặp những bổn tôn và các ngài sẽ giúp quý vị đi đến Shambhala. Ngài viết như thế. Do vậy, đấy không phải là một hành trình vật lý thông thường.

BERZIN: Serkong Rinpoche đã nói với tôi rằng cha của ngài là Serkong Dorjechang đã từng đi đến Shambhala và đã đem về hoa và trái cây, mà họ đã để trong nhà của họ.

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tôi quy y với ngài! Đức Ban Thiền Thứ Ba cũng đã đến Shambhala. Một số đạo sự uyên bác cũng đã đến đấy. Có một tường thuật của Taranatha [1] đi đến Shambhala, nhưng tôi nghĩ đấy là qua một thân mộng uyển. Tuy thế, nó không trên trái đất tròn này. Chắc chắn là một tịnh độ với nhân sinh tương tự trên trái đất này. Thật khó để nói.

BERZIN: Luận điển Thời Luân nói về lục địa lớn và nhỏ của Diêm Phù Đề [2]. Về nửa vùng phía Bắc của lục địa nhỏ, sách liệt kê sáu vùng đất về phía Bắc, một vùng là Shambhala.

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Thật khó khăn. Nếu chúng ta nói trong những dạng thức như vậy, thế thì Shambhala sẽ lầ một nơi trên Trái Đất này. Cũng có đề cập trong sách về núi Phổ Đà La (Potala) ở phương Nam, vùng đất Ugyan (Skt. Oddiyana) ở phía Tây, Núi Ngũ Phong ở phía Đông và Shambhala ở phía Bắc.

BERZIN: Serkong Rinpoche đã nói về những thứ này, một số ở trên Trái Đất và một số thì không.

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Một cách chính xác, đấy là tại sao. Có hai cho mỗi thứ: những thứ thật sự và những thứ tương tựđại diện cho chúng. Thí dụ, theo học giả Gendun-chopel, Ugyan ở trong Sindhi (Swat Valley ở Pakistan). Ngày nay, đấy là một vùng Hồi Giáo. Nó hoàn toàn không rõ ràng, nhưng đối với Núi Đồng Sắc (Copper-Colored Mountain) mà Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đã đến trong Ugyan, chắc chắn là trong một cõi tịnh độ vô nhiễm.

Bây giờ đối với Núi Phổ Đà La ở phương Nam, thì như một đại diện cho nó, có một núi ở Nam Ấn. Nhưng rồi thì có một ngọn núi Phổ Đà của Quán Thế Âm, là một cõi tịnh độ (Phổ Đà Sơn). Đối với Núi Ngũ Nhạc, có một nơi quen thuộc ở Trung Hoa, Ngũ Đài Sơn, với tên này như là một nơi thật sự ở phía Đông, mà cũng có một cõi tịnh độ của Văn Thù Đại Sĩ có cùng tên.

Vì vậy, hoàn toàn chắc chắn Shambhala cũng là một cõi tịnh độ như thế, với một vị trí nào đấy đại diện cho nó. Cũng có một tiền lệ trước cho sự biểu hiện của nó. Tuy nhiên, nó không thể tìm thấy trong bất cứ nơi nào. Có nhiều lý do và dấu hiệu để nói về sự hiện hữu của nó, nhưng bởi vì nó không ở trên thế giới này, thế thì ngoại trừ vì nó biểu hiện là một cõi tịnh độ vô nhiễm, không có điều gì khác có thể liên hệ đến những điều trong luận điển.

BERZIN: Và về những chi tiết nói đến những đĩa bay?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Có thể nói rằng chúng có liên hệ với Shambhala. Một cách chắc chắn, có những chúng sinh khác trong vũ trụ này. Có những loại chúng sinh khác và dứt khoát vì thế họ ở những thế giới khác, không chỉ trong thế giới chúng ta. Điều ấy là rõ ràng. Có nhiều thiên hà.

Bây giờ, Shambhala bao hàm trong thiên hà của chúng ta, có lẻ ngay cả trong thái dương hệ của chúng ta, vì luận điển nói nó bao gồm trong Diêm Phù Đề (hệ thống thế giới của chúng ta). Do thế, nó nói về một cõi tịnh độ trong hệ thống thế giới của chúng ta, tuy vậy, có thể rộng lớn hơn, nơi chỉ có những chúng sinh với nghiệp thanh tịnh có thể đến và nơi mà những chúng sinh với thân thể con người.

BERZIN: Ở phương Tây, chúng tôi đã từng nói về Shangrila. Điều này có liên hệ gì không?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Nó là một nơi thanh khiết, có phải không? Tôi không biết, nhưng chắc chắn là thế. Tên gọi biểu thị cho một nơi thanh tịnh, vì thế tôi nghĩ tên gọi chắc chắn có nguồn gốc từ Shambhala.

 

3- Tiên Đoán Về Sự Xâm Lăng Của Những Người Hung Tợn

BERZIN: Giải thích cách nào hay nhất về những tiên đoán về những kẻ xâm lược hung tợn không phải người Ấn, người Lalo?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MAChúng ta thật sự có thể nói rằng họ là những người Hồi hay những nhóm cùng chia se những phong tục thông thường với họ không? Hoàn toàn không chính xác. Tôi không biết nói thế nào. Thí dụ, ở Mông Cổ, họ gọi người Nga “Turuka,” tên khác xuất hiện trong văn bản cho những kẻ xâm lược Lalo. Những người Cộng sản thông thường bị gọi Turuka hay Lalo. Lolo, thế thì, là những kẻ cố gắng tiêu diệt Phật Giáo một cách chủ tâm.

BERZIN: Có phải tốt nhất chỉ gọi họ là Lalo trong tiếng Anh?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Vâng, Lalo có lẻ là tốt nhất. Nếu ông nhìn vào Tantra Thời Luân Tóm Lược, nói rằng Lalo ăn thịt bò và trứng. Liên hệ đến những kẻ không phải người Ấn [vì người Ấn không ăn thịt bò và trứng], và không nghi ngờ gì nữa là những người đến từ vùng khí hậu ấm. Rõ ràng là Âu châu, những vùng khí hậu mát, không có gà. Tôi cũng không nghĩ nó phải ở vào những thời xa xưa. Người Hy Lạp và La Mã chắc chắn ăn gà [và người Ấn ban sơ dùng thuật ngữ Lalo (skt. Mlecha) cho quân đội xâm lược của Alexander Đại Đế của Macedonia]. Ở Tây Tạng, chúng tôi đặc biệt không ăn trứng. Đấy là phong tục Ấn Độ, thế thì tại sao liên hệ đến trứng?

Turuka liên hệ đến người Turkic [3], có phải không? Trong những người Hồi xâm lược Ấn Độ, có vài làn sóng của người Turkic. Tuy thế, những người Mughal không phải Turkic và họ xâm lược về rất sau này. Có phải những người vào lúc ấy [và cuối thế kỷ thứ chín hay thứ mười khi giáo huấn Thời Luân đến Ấn Độ] bị gọi là Thổ (Turk)? Tôi nghĩ rằng nếu luận điển có một liên hệ lịch sử, họ liên hệ đến những người Turkic xâm lược Ấn Độ.

Tuy thế, Turuka liên hệ thông thường đến những ai tàn phá Phật Giáo [cho dù những bộ lạc ở Trung Á hay những nơi khác, cho dù Hồi Hồi, Cộng sản, hay bất cứ tín ngưỡng nào khác.]

BERZIN: Có phải người Lalo có thể chỉ là biểu tượng và chỉ liên hệ đến những năng lực tàn phá mà chúng ta phải chiến đấu trong một trận chiến tâm linh nội tại hay không?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tôi tự hỏi nó có phải chỉ là biểu tượng hay không? Khi luận điển nói về chiến tranh và Đại lĩnh Thần hầu [4], nó chỉ là biểu tượng hay thật sự, tôi không biết.

BERZIN: Nhưng chúng thật có những ý nghĩa biểu tượng, như luận điển Thời Luân giải thích.

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Vâng, nhưng những luận giải của những đạo sư uyên bác không chỉ xem chúng một cách biểu tượng, mà cũng là đúng như thế. Tuy nhiên, nếu sự liên hệ nói đến một cuộc chiến nguyên tử, nó sẽ không có cho đến gần như 400 năm nữa. Nhưng nó sẽ như thế nào, tôi không biết.

BERZIN: đôi khi người Tây phương hỏi trận chiến này và vị Phẫn Nộ Chuyển Luân Thánh Vương [5][vị lĩnh đạo của Shambhala đánh bại người Lalo] có sẽ xuất hiện sớm hơn không. Điều đấy có thể chứ?

blank

PHẪN NỘ CHUYỂN LUÂN VƯƠNG

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tôi không biết. Thật khó khăn để nói. Nhưng nếu Shambhal xuất hiện sớm hơn, thế thì chúng tôi sẽ có thể trở lại Tây Tạng sớm hơn. Shambhala đến càng sớm; sự giải thoát sẽ càng sớm hơn.

 

4- Học Tập Về Lễ Quán Đỉnh Và Những Thệ Nguyện Trước Khi Nhận Lễ Quán Đỉnh

BERZIN: Như một giới thiệu cho lễ quán đỉnh, như thế có cho phép diễn tả mạn đà la, bao nhiêu bổn tôn, màu sắc, và v.v…?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Được thôi. Nếu người ta biết một ít về những chương trình của lễ quán đỉnh là điều rất tốt. Sau này, trong lễ quán đỉnh thật sự, tôi sẽ giới thiệu mỗi phần. Nhưng nếu mọi người biết trước một ít, sẽ rất hữu ích.

BERZIN: Về phần những thệ nguyện Mật tông và cam kết thầy trò (samaya), có được phép để nói cho mọi người trước hay không? 

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Theo tiến trình Mật thừa, người ta không được công khai những thệ nguyện này trước lễ quán đỉnh. Tuy nhiên, đối với những ai chân thành tiếp nhận lễ quán đỉnh nếu họ biết trước một ít, rồi thì lễ quán đỉnh sẽ xảy ra một cách thật sự mạnh mẽ và toàn hảo. Nhưng những người như vậy cần phải là những Phật tử thành tâm và xác định rõ về việc tiếp nhận lễ quán đỉnh hay những ai đã từng tiếp nhận những lễ truyền pháp Vô Thượng Du Già trước đây. Để giải thích cho những người như vậy, sẽ không có gì lỗi lầm. Một cách đặc biệt nếu những người đã tiếp nhận những lễ truyền pháp Vô Thượng Du Già khác, thế thì không có sai trái với sự giải thích những cam kết (samaya) Thời Luân Kim Cương.

Đối với những ai chưa nhận lễ quán đỉnh Vô Thượng Du Già (anuttarayoga) và không có ý định tiếp nhận lễ truyền pháp, thí dụ, những ai chỉ là những học giả, thì không tốt để giai thích cho họ. Tốt hơn là có một số hạn chế. Tuy nhiên, nếu những thệ nguyện Mật thừa và những cam kết samaya đã phổ biến rồi và người ta hiểu sai chúng và chấp giữ những quan niệm sai lầm về chúng, điều cần thiết là để qua một bên sự cấm đoán. Tốt hơn là cho mọi người một sự giải thích đúng đắn, hơn là để họ làm mất uy tín Mật tông do bởi những tin tức sai lầm hay sự giảng giải nghèo nàn.

 

5- Tham Dự Như Những Người Quán Sát Đơn Thuần

BERZIN: Trong những người sẽ tham dự lễ quán đỉnh, hầu hết thích thú trong Phật Giáo, nhưng thật khó để nói họ sẽ chấp nhận Đạo Phật hay không. Những ai không theo Phật Giáo, nhưng tham dự lễ quán đỉnh sẽ không muốn thọ giới Bồ Tát và những thệ nguyện Mật Tông.

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Đây là một điều mà tôi thường nói đến vào lúc lễ quán đỉnh. Rồi thì họ chỉ muốn như những người quán sát hay chứng kiến. Tôi nói như thế lần cuối tôi truyền pháp ở Hoa Kỳ. Cũng thế, ở Pháp, khi tôi truyền trao lễ quán đỉnh tám biểu hiện Liên Hoa Sinh Đại sĩ (Guru Rinpoche), trong ngày thứ hai, Thị Trường Jacques Chirac [7] đến và tôi đã mời ông tham dự như một người chứng kiến. Ông ta không phải là Phật tử, mặc dù thích Đạo Phật. Vì thế không có gì tai hại.

Vì vậy, lúc truyền giới Bồ Tát, tôi thường giải thích rằng chỉ những Phật tử, muốn tiếp nhận và những ai có thể giữ giới, mới cần quán tưởng điều này. Rồi thì, tôi cũng làm như thế với thệ nguyện Mật Tông. Những ai không có nguyện ước thọ nhận giới nguyện chỉ như những người quán sát hay chứng kiến [và đừng theo đuổi những tiến trình tương tựquán tưởng].

BERZIN: Khi người ta ở đấy như vậy và quán chiếu, điều gì tốt nhất cho họ để suy tư và những gì lợi ích cho họ đối với những người quán chiếu?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tôi không thể nói. Mặc dù người ta có thể đề xuất những tư tưởng hữu ích nếu người như vậy tiếp nhận, nhưng chúng ta không có quyền khuyến khích họ nên suy nghĩ như thế này hay thế nọ. Chỉ đơn giản là những người quán chiếu. Một số ngay cả đi đến phê bình Phật Giáo. Điều ấy là có thể. Tuy nhiên, chúng ta không bình phẩm. Đấy là quyền của họ. Đối với những người chúng taPhật tử, chúng ta có thể cho họ những lời hướng dẫn đến những gì để suy tư và hành động trong lễ quán đỉnh; những đối với những người khác, chúng ta không thể đề xuất những hướng dẫn cho họ. Chúng ta chỉ có thể nói quán chiếu và đấy là tất cả.

Một số có thể đi đến những cảm giác bệnh hoạn, nhưng hầu hết không có cảm giác như vậy. Đối với những ai không có cảm giác bệnh hoạn, không có vấn đề gì với họ. Nhưng, đối với những kẻ đi đến với cảm giác như thế đối Đạo Phật, thì họ không cần phải đến. Đối với những người với cảm giác bệnh hoạn đối với Phật Giáo thì tốt hơn là ở nhà. Tuy nhiên, không có điểm nào trong việc nói rằng đừng có cảm giác bệnh hoạn. Vì vậy, tốt hơn thật sự là những người quán sát vô tư và thế rồi không có gì để nói. Có phải như thế không?

 

Phụ chú trong ngoặc vuông của Giáo sư Berzin

[1] Taranatha: tên của một học giả sử gia người Tây Tạng thuộc dòng Jonangpa, truyền thống bị cấm đoán vởi Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ năm vì cho rằng đấy là truyền thống ngoại đạo. Tác phẩm nổi tiếng của ông có nhan đề là “Lịch Sử Phật Giáo ở Ấn Độ”.

[2] Jambuvipa: châu Diêm Phù Đề, Nam Thiệm Bộ Châu, Nam Châu, Nam Bộ, Nam Diêm Phù Đề, Nam Phù.

[3] Turkic: những người nói tiếng Altaic bao gồm Thổ Nhĩ Kỳ, Turkmen, Kirghiz, Tarta… từ Thổ Nhĩ kỳ đến Tây Bắc Trung Hoa, đặc biệt ở Trung Á.

 [4] Hanuman – Cáp Nô Man – nhân vật trong sử thi Ramayana của Ấn Độ 

[5] Dragpo Korchen (Drag-po 'khor-can, Skt. Rudrachakrin)

[6] Hứa nguyện, hay thệ nguyện thiêng liêng mà đấy sẽ kết chặc hành giả Kim Cương Thừa với vị Kim Cương Sư và Yidam. Hành giả cam kết và cố gắng giữ gìn thệ nguyện cũng như những thực hành nào đấy. Samaya – damsig: Cảnh nhà tu quyết đắc Phật huệ. Từ này gồm những nghĩa: Tam bình đẳngTam mật tương ưng: thân – khẩu – ý như nhau. Thệ nguyện giữ giới. Cảnh giác làm thức tỉnh giác ngộ. Trừ cấu chướng: diệt trừ phiền não chướng ngại đối với thân tâm.

[7] Jacques René Chirac (trợ giúp·chi tiết) (sinh ngày 29 tháng 11năm 1932 tại Paris) là một nhà chính trị người Pháp. Ông đã được bầu làm Tổng thống Pháp vào năm 1995 và 2002. Từng giữ những chức vụ Bộ trưởng bộ Nông nghiệp, Thủ tướngThị trưởng Paris và rồi Tổng thống Pháp.

Ẩn Tâm Lộ ngày 08/01/2011


Bài liên quan:

THÔNG BẠCH CỦA BAN TỔ CHỨC KALACHAKRA 2011


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15551)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 22995)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14030)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12952)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55079)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9131)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14409)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14145)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14175)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13869)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36276)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19855)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18150)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19183)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19106)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20267)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17618)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31510)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15903)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14973)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14663)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46147)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35894)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21019)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21577)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23365)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34349)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19467)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18924)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22909)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20153)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18330)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19822)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19512)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33386)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34449)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54481)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37677)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21113)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17859)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63612)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17357)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49623)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27400)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20248)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22998)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18879)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16313)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17898)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20926)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17338)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14451)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16840)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16357)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15984)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17453)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21956)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15090)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13479)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14353)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15365)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14965)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12676)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13329)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27371)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12486)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13171)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14465)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16204)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12379)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15383)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12857)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12181)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13179)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21623)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11270)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22687)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15046)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14921)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46170)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22412)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14545)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12604)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18887)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14711)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43837)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56931)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13817)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47451)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13642)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14552)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28981)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33274)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38348)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15385)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31197)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12515)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40368)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43393)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46631)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant