LỊCH SỬ
THIỀN TÔNG TRUNG QUỐC
Biên
dịch:
Nguyễn Nam Trân
Chương
3
Tư
tưởng Thiền hoàn thành
Trăm
nhà
đua tiếng
Tiết
1: Mã Tổ Đạo Nhất xuất hiện. Các môn phái bị đào thải
Tình
hình của Bắc Tông và Hà Trạch Tông:
Như
đã trình bày, vào hậu bán thế kỷ thứ 8, ba tông phái Bắc
Tông, Nam Tông (Hà Trạch) và Ngưu Đầu Tông chia thế ba chân
vạc (tam tông đỉnh lập). Chẳng bao lâu, Bắc Tông và Hà
Trạch Tông dần dần suy yếu.
Đối
với Bắc Tông, không những sự phê phán của Thần Hội là
những ngọn đòn rất nặng, làm cho họ mất hết uy tín mà
tình trạng xã hội tao loạn càng bức bách họ thêm. Tuy họ
vẫn giữ chủ trương "đốn ngộ" nhưng khuynh hướng tĩnh
và thần bí nơi họ vẫn mạnh cho nên lúc đầu họ có ảnh
hưởng đối với tầng lớp vua quan và quí tộc. Sau khi có
cuộc loạn An Sử, giai cấp này, xưa nay ủng hộ họ, lại
mất chỗ đứng nên họ đâm ra mất dần thế lực.
Hà
Trạch Tông đã điền vào chỗ khuyết của Bắc Tông. Hoạt
động của Hà Trạch là nhân tố kích thích các tông phái
khác như Ngưu Đầu, Bảo Đường và Tịnh Chúng. Dầu vậy,
sau khi Thần Hội chết, Hà Trạch Tông cũng lâm vào cảnh suy
vi. Họ không qui tụ được nhân tài nên đi đến chỗ mai
một. Lý do là phần vì cá tính quá mạnh mẻ của bản thân
Thần Hội, phần khác tiềm ẩn ngay trong tư tưởng của môn
phái.Tư tưởng của Thần Hội chỉ có lý do tồn tại khi
còn phê phán được Bắc Tông. Nếu Bắc Tông chưa mất, tư
tưởng Hà Trạch Tông vẫn phát triển được bằng cách tạo
ra những luận cứ chống lại Bắc Tông. Đến khi Bắc Tông
tàn tạ suy vong thì sức mạnh của Hà Trạch Tông cũng mất
đi. Một khi tư tưởng Thần Hội không còn ý nghĩa cũng như
sức hấp dẫn của nó, hoạt động của môn phái bắt buộc
phải thụt lùi.
Hà
Trạch Tông thường ngày vẫn ý thức sự hiện diện của
Bắc Tông, cho nên họ cứ giữ nguyên hình thức cũ, cứ thế
mà thay thế Bắc Tông. Họ đặt mục đích thu phục giai cấp
thượng lưu quí tộc, muốn làm sao cho những người xưa ủng
hộ Bắc Tông lại tiếp tục ủng hộ mình. Vì lý do trên,
khi giai cấp ấy suy tàn thì nó cũng kéo theo sự suy tàn của
tông Hà Trạch.
Khi
Hà Trạch Tông suy thoái rồi, uy tín của Thần Hội cũng dần
dần lung lay. Cuốn Tào Khê Đại Sư Truyện (781) mà tăng Nhật
Bản là Saichô (Tối Trừng, 767-822) đem về nước, là một
tập truyện ký nói về Huệ Năng. Tuy có nhắc đến những
hoạt động của Thần Hội nhưng sách ấy cũng cho ta thấy
được dễ dàng có sự hiện diện của khuynh hướng muốn
tách ra khỏi vòng ảnh hưởng của tư tưởng Thần Hội trong
khung cảnh thiền môn buổi ấy. Qua cuốn Tào Khê Đại Sư
Truyện nói trên, ta thấy quyền uy Lục tổ của Huệ Năng
vẫn được thừa nhận như trước (tác giả của nó có thể
là người có liên hệ mật thiết với Bảo Lâm Tự cũng không
chừng). Tuy nhiên, ta vẫn suy đoán được rằng lúc đó, khuynh
hướng tách Huệ Năng khỏi Thần Hội và trao cho ông một
quyền uy siêu việt ngày càng mạnh mẻ.
Mã
Tổ và Thạch Đầu:
Thế
rồi, trong hệ phổ Nam Tông của Huệ Năng lúc đó, một số
người dần dần xuất đầu lộ diện và có đủ thế lực
để áp đảo các tông phái khác. Đó là Mã Tổ Đạo Nhất
(709-788) với Hồng Châu Tông và Thạch Đầu Hi Thiên với Thạch
Đầu Tông.
Tào
Khê
Huệ Năng (638-713) -> Nam Nhạc Hoài Nhượng (744-744) -> Mã Tổ Đạo Nhất.
->
Thanh
Nguyên Hành Tư ( ? - 740) -> Thạch Đầu Hy Thiên.
Hai
nhân vật Nam Nhạc Hoài Nhượng và Thanh Nguyên Hành Tư lúc
đầu hoàn toàn không được ai biết đến nên việc họ có
là những người chính thức thừa kế Huệ Năng hay không thì
vẫn chưa lấy gì làm chắc.Nếu đọc Tào Khê Đại Sư Truyện,
sẽ thấy nếu những ai bình sinh không có gì kết nối với
Huệ Năng thì khó có thể giữ được địa vị chính thống.
Đương thời, Vĩnh Gia Huyền Giác (657-713) từng giao lưu với
Nam Dương Huệ Trung (tức Huệ Trung Quốc Sư, ? - 775) người
được Đường Túc Tông (trị vì 756-762) đặc biệt kính trọng)
hay Tả Khê Huyền Lãng (673-754) sau này cũng như họ sẽ theo
học Lục Tổ Huệ Năng. Có lẽ các ông đều can dự tới
câu chuyện thừa kế này. (Có thuyết cho Huyền Giác là tác
giả Chứng Đạo Ca, tác phẩm vẫn còn được truyền tụng
rộng rãi cho đến bây giờ).
Đặc
biệt Mã Tổ Đạo Nhất có uy lực lôi kéo cả dòng thiền
về với mình và cuối cùng đoạt được cái ghế chính thống
từ Hà Trạch Tông. Có thể vì ông là một nhà sư phạm giỏi
đã đào tạo được nhiều nhân tài cho tông phái. Tây Đường
Trí Tạng (735-814), Phục Ngưu Tự Tại (741-821), Đông Tự Như
Hội (744-823), Ngũ Duệ Linh Mặc (747-818), Phù Dung Thái Dục
(747-826), Nam Tuyền Phổ Nguyện (748-834), Bách Trượng Hoài
Hải (749-814), Đại Mai Pháp Thường (752-839), Chương Kính Hoài
Huy (754-815), Hưng Thiện Duy Khoan (755-817), Diêm Quan Tề An (?-
842), Đại Châu Huệ Hải (năm sinh năm mất không rõ), Ma Cốc
Bảo Triệt (năm sinh năm mất không rõ), Quy Tông Trí Thường
(năm sinh năm mất không rõ), cư sĩ Bàng Uẩn (? - 808)...đều
học ông và tất cả là những nhân vật nổi tiếng trong làng
thiền. Mặt khác, chính ông cũng là người đề xướng được
một hệ tư tưởng thiền độc đáo (bình thường tâm thị
đạo). Tư tưởng thiền phát xuất từ ông thường được
gọi là Mã Tổ Thiền.
Mã
Tổ Đạo Nhất:
Mã
Tổ Đạo Nhất người Hán Châu thuộc Tứ Xuyên, vì họ Mã
nên được tôn xưng là Mã Tổ hay Mã Đại Sư. Ông xuất gia
làm môn hạ Xử Tịch (648-734) ở Tư Châu (tỉnh Tứ Xuyên)
và tu hành tại Trường Tùng Sơn thuộc Ích Châu (Tứ Xuyên)
và các nơi khác. Xong, ông đến Nam Nhạc (tỉnh Hồ Nam) tham
học Hoài Nhượng, nhận pháp tự. Sau khi sống ở nhiều nơi,
ông về trụ trì chùa Khai Nguyên ở Chung Lăng (Giang Tây) và
truyền bá tông phong. Đào tạo được nhiều đệ tử (theo
Quy Sơn Linh Hưu, có đến 84 người đáng gọi là thiện trí
thức). Còn Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (năm 1004) thì nêu
tên đến 138 người. Đồ đệ đến từ cửa ông đã thành
chủ lưu của thiền tông, trong đó có một môn phái (Hồng
Châu Tông) mang tên vùng đất Hồng Châu là nơi Mã Tổ cư
trú. Năm 788, ông mất ở chùa Bảo Phong núi Thạch Môn vùng
Lặc Đàm (Giang Tây), thọ 80 tuổi, thụy hiệu Đại Tịch
Thiền Sư. Lời giảng của ông được thu thập lại trong Giang
Tây Mã Tổ Đạo Nhất Thiền Sư Ngữ Lục, gồm cả những
câu nói trứ danh như "Bình thường tâm thị đạo", "Tức tâm
tức Phật"...
Quả
thật, sự xuất hiện của Hà Trạch Thần Hội đã đánh dấu
một giai đoạn quan trọng trong lịch sử Thiền Tông. Ông nhấn
mạnh đến "đốn ngộ" và "định tuệ đẳng", bác bỏ ý
nghĩa của cách tu hành tuần tự với thứ bậc theo thời gian,
đề xướng sự trở về với cuộc sống hằng ngày, khai sáng
ra loại "ngữ lục" mà ông xem như phương pháp diễn đạt
mới mẻ và thích hợp nhất cho việc tu học. Có thể nói,
qua những ý tưởng đó, ông muốn quét sạch những tàn dư
của quan niệm tu thiền theo kiểu Ấn Độ. Tuy nhiên, Thần
Hội cũng cho rằng muốn tu như thế phải có được cái "tri"
(máy động của trí tuệ bát nhã). Vì lẽ đó, Thần Hội
Tông nhấn mạnh rằng trong cuộc sống hằng ngày, cái "tri"
phải được máy động thường xuyên.Đó là nguyên lý duy
nhất để có thể thoát khỏi "mê ngộ". Có thể nói nó là
thành lũy cuối cùng để bảo vệ "bỉ ngạn" (thế giới của
ngộ hay Niết Bàn).
Thế
nhưng khi Mã Tổ giảng giải rằng cái lòng bình thường cũng
là đạo rồi (bình thường tâm thị đạo) hay ngoài cái lòng
bình thường chẳng có Phật ở đâu cả (Tức tâm tức Phật)
thì ông đã từ khước tất cả những gì có tính siêu việt
hay quan niệm, cho rằng chúng hoàn toàn chẳng giá trị gì cả.
Ông chỉ yêu cầu người ta triệt để giữ được cái tâm
bình thường, chân thực. Điều này còn được gọi là "đại
cơ đại dụng thiền". Chúng ta cũng hiểu là chủ trương sống
thiền một cách giản dị và sáng sủa như thế rất phù hợp
tâm lý người Trung Quốc vốn chuộng những lối suy nghĩ sát
với hiện thực.
Trên
thực tế, môn hạ phái Hồng Châu của Mã Tổ đã phát triển
rộng rãi toàn quốc, đào tạo được nhiều đệ tử. Riêng
Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (năm 1004), tác phẩm được biên
tập vào đời Tống, có cho biết Bách Trượng Hoài Hải (Nam
Xương, tỉnh Giang Tây) có 38 đệ tử, Nam Tuyền Phổ Nguyện
(Trì Châu, tỉnh An Huy) có 17 người, Chương Kính Hoài Huy (Tây
An, tỉnh Thiểm Tây) có 16 người,Diêm Quan Tề An (Hàng Châu,
tỉnh Chiết Giang) có 8 người, Hưng Thiện Duy Khoan (Tây An,
tỉnh Thiểm Tây) và Quy Tông Trí Thường (Nam Khang Lô Sơn tỉnh
Giang Tây) có 6 người, tổng cộng đến 117. Thế rồi, các
đệ tử ấy lại đi truyền giáo khắp nơi và cứ thế mà
nhân con số đệ tử của phái Hồng Châu lên gấp bội.
Một
mặt, môn hạ của Thạch Đầu (Thạch Đầu Tông) cũng có
nhiều nhân vật lỗi lạc như Dược Sơn Duy Nghiễm (751-834),
Thiên Hoàng Đạo Ngộ (748-807) và Đan Hà Thiên Nhiên (738-824)...đủ
sức đuổi theo hệ phái Mã Tổ trên con đường bành trướng
thế lực. Sở dĩ có khả năng như thế vì tư tưởng của
tông phái họ cho rằng người đi tu chỉ cần đi tìm sự giác
ngộ trong tâm là đủ đã được sự ủng hộ của tầng lớp
tiết độ sứ và quan sát sứ, một thế lực mới xuất hiện
và dần dần lan ra ở các địa phương kể từ sau cuộc loạn
An - Sử.
Trong
bối cảnh như thế, đã thấy xuất hiện những cuốn đăng
sử (sử Thiền Tông) có mục đích chính thống hóa hệ phái
Mã Tổ và Thạch Đầu, chẳng hạn Bảo Lâm Truyện (năm 801)
do Trí Cự (năm sinh và mất không rõ) biên tập.
Thạch
Đầu Hi Thiên và Thạch Đầu Tông:
Thạch
Đầu Hy Thiên quê ở Đoan Châu tỉnh Quảng Đông, vốn họ
Trần. Lúc đầu theo thờ Huệ Năng nhưng sau khi thầy nhập
diệt, lại đến tham học với Thanh Nguyên Hành Tư ở Cát
Châu, tỉnh Giang Tây và nhận pháp tự của ông này. Về sau,
ông lập am ở Thạch Thượng, Nam Nhạc, nhân đó được gọi
là Thạch Đầu. Tuy thu phục được nhiều đệ tử nhưng buổi
đầu không được chú ý cho lắm đến nổi Khuê Phong Tông
Mật (780-841), học trò ông, còn bị xem như thuộc Mân Tuyệt
Vô Ký Tông, một chi phái của Ngưu Đầu Tông. Thế nhưng Thiên
hoàng Đạo Ngộ và Đan Hà Thiên Nhiên, tuy xưa kia tu hành ở
cửa Mã Tổ, và một người khác, Ngũ Duệ Linh Mặc, sau sẽ
là đệ tử của Mã Tổ, đều đến tham học với Thạch Đầu.
Giữa hai phái Mã Tổ và Thạch Đầu vẫn thường có sự qua
lại và có thể xem như giáo lý của họ có nhiều điểm tương
đồng.
Bảo
Lâm Truyện:
Tên
đầy đủ của nó là Đại Đường Thiều Châu Song Phong Sơn
Tào Hầu Khê Bảo Lâm Truyện (801), gồm 10 quyển, bản hiện
hành mất ba quyển 7, 9 và 10. Lại nữa, quyển 2 được bổ
khuyết bằng Thánh Trụ Tập (năm 899) chứ trong Kim Khắc Đại
Tạng Kinh thì quyển 2 và 10 đã không có rồi. Sách này được
biết là ngày xưa đã được tăng Nhật Bản Ennin (Viên Nhân,
tông Thiên Thai, 794-864, nhập Đường 838-847) đưa về nước
cho nên có thể suy định là vào đời Đường, nó đã được
phổ biến khá rộng. Tuy nhiên đến khi Cảnh Đức Truyền
Đăng Lục và Truyền Pháp Chính Tông Ký (năm 1061) ra đời
thì vai trò lịch sử của nó bị lu mờ và sau cùng mất mát,
tan tác. Bản ngày nay còn được truyền lại là bản mới
phát hiện gồm 2 bản Kim Khắc Đại Tạng Kinh Sở Thu Bản
(các quyển 1, 5 và 8) và bản Thanh Liên Viện Tàng Bản (quyển
6) hợp lại. Ngoài ra cũng nhờ sự trích dẫn ở các sách
khác mà có thêm một phần nội dung tưởng đã mất hẳn.
Sách ấy chép về hệ phổ truyền pháp từ Tây Thiên Nhị
Thập Bát Tổ qua Đông Độ Lục Tổ cho đến Mã Tổ và Thạch
Đầu. Ngôn từ và hành trạng của mỗi tổ đều được ghi
chép tường tận tuy rằng không tránh khỏi những chi tiết
hoang đường, vô căn cứ hoặc hoàn toàn sáng tác, tạo dựng.
Thế nhưng Bảo Lâm Truyện sẽ là cơ sở để cho Thánh Trụ
Tập và các sách vở về sau như Tổ Đường Tập (952), Cảnh
Đức Truyền Đăng Lục, Truyền Pháp Chính Tông Ký dùng làm
nền tảng cho việc biên tập. Trong những chi tiết đó, nhiều
điều đã trở thành những "định thuyết" của lịch sử
Thiền Tông. Chẳng hạn như Truyền Pháp Kệ, một chứng cứ
của sự phó pháp (truyền thừa giáo pháp cho đệ tử), được
thấy lần đầu tiên trong Lục Tổ Đàn Kinh, thì sách ấy
lại khuếch đại ra, ứng dụng nó cho tất cả các tổ. Sở
dĩ ta biết được Bảo Lâm Truyện có tiếng vang lớn là bởi
vì về sau nó có thêm một cuốn tục biên, nhan đề Tục Bảo
Lâm Truyện (đầu thế kỷ thứ 10). Thông tin này do tăng Nam
Nhạc Hoài Kính (năm sinh năm mất không rõ, học trò của Tuyết
Phong Nghĩa Tồn) cho biết, chứ thực ra ngày nay sách ấy không
còn nữa.
Đường
hướng và hoạt động của Ngưu Đầu Tông. Vai trò Khuê Phong
Tông Mật:
Trong
khi hai tông thiền Nam, Bắc suy thoái dần thì chỉ còn tông
Ngưu Đầu là thịnh vượng. Trong đám môn hạ của Ngưu Đầu
Huệ Trung, người được xem như "Ngưu Đầu Tông đệ lục
tổ", có những anh tài như Thái Bạch Quán Tông (731-809) và
Kim Lăng Huệ Thiệp (741-822) nhưng đáng kể nhất phải nói
là Phật Quật Duy Tắc (751-830) Ngoài việc có nhiều trước
tác, Duy Tắc còn có nhiều hoạt động khác như biên tập
lại văn thư của "tông tổ" là Ngưu Đầu Pháp Dung. Riêng
Ngưu Đầu Tuệ Trung cũng để lại thi ca như các bài Kiến
Tính Tự hay Hành Lộ Nan, được nhiều người biết đến.
Đặc biệt, hình như Phật Quật Duy Tắc rất có văn tài và
môn đệ của ông thường tự hào về Phật Quật Học. Nhờ
tăng Nhật Bản Saichô (Tối Trừng, 767-822, nhập Đường 804-805)
thủy tổ phái Thiên Thai Nhật Bản, khi qua Trung Quốc có đến
học Ngưu Đầu Thiền với Thúc (?) Nhiên (năm sinh năm mất
không rõ), cũng như môn hạ của ông là Enchin (Viên Trân, 814-891,
nhập Đường 853-858) mà trứ tác của Duy Tắc như Vô Sinh
Nghĩa và Hoàn Nguyên Tập đã được đem về Nhật. Như vậy
có thể phỏng đoán là vào tiền bán thế kỷ thứ 9, các
sách đó đã được lưu hành rộng rãi tại Trung Quốc rồi.
Đệ tử của Duy Tắc là Vân Cư Phổ Trí (trung diệp thế
kỷ thứ 9) cũng được biết là giỏi văn chương, trước
tác của ông đã được tăng phái Chân Ngôn là Eun (Huệ Vận,
798-869, nhập Đường 842-847) đem về Nhật.
Ngoài
ra, Hạc Lâm Huyền Tố (668-752) của tông Ngưu Đầu có những
đại đệ tử như Kinh Sơn Pháp Khâm (hay Đạo Khâm, 714-792),
Ngô Trung Pháp Kính (hay Pháp Giám, hậu bán thế kỷ thứ 8),
Ngô Hưng Pháp Hải (hậu bán thế kỷ thứ 8). Kinh Sơn Pháp
Khâm là người nổi nhất đám, năm 768 đã được mời vào
triều giảng đạo và được vua Đường Đại Tông (tại vị
762-779) phong xưng hiệu Quốc Nhất Đại Sư và đặt tự hiệu
cho ngôi chùa của ông là Kinh Sơn Tự. (Khi ông chết rồi,
vua Đức Tông (tại vị 779-805) còn phong thụy hiệu là Đại
Giác Thiền Sư). Những nhà quí hiển như Lý Cát Phủ (760-814)
chẳng hạn theo ông rất đông. Ông còn có nhiều đệ tử
trong só đó Hàng Ma Sùng Huệ (hậu bán thế kỷ thứ 8), người
đã từng tỉ thí về đạo lực với các nhà tu Lão Giáo.
Sự cảm hóa của ông lan rộng ra cả giáo đồ hai tông Hồng
Châu và Thạch Đầu, đến tận Thanh Lương Trừng Quán (738-839)
của Hoa Nghiêm Tông.
Trong
khi tông Ngưu Đầu hưng thịnh trong bối cảnh phồn vinh của
sự phát triển kinh tế vùng Giang Nam, đã có hai tông phái
với vũ khí tư tưởng mới mẻ là Hồng Châu và Thạch Đầu
bắt đầu đến chia bớt ảnh hưởng. Chẳng bao lâu, Ngưu
Đầu dần dần chịu thế hạ phong, do hậu quả cuả những
cuộc giao lưu sinh động giữa các tông phái. Vì Ngưu Đầu
không tìm ra được người thừa kế nên đến giữa thế kỷ
thứ 9 thì sự truyền thừa đã tuyệt. Thế nhưng, ngược
lại, phải chăng cũng nhờ những giao lưu này mà tư tưởng
có màu sắc Lão Trang của tông Ngưu Đầu đã thẩm thấu vào
hệ tư tưởng của Hồng Châu và Thạch Đầu, trở thành một
bộ phận trọng yếu của Thiền Tông.
Giao
lưu về mặt con người giữa Ngưu Đầu, Hồng Châu và Thạch
Đầu:
Ba
tông phái nói trên đã có những giao lưu về mặt con người
đầy sinh khí. Ví dụ Tây Đường Trí Tạng, đồ đệ của
Mã Tổ, đã đến tham học với Kinh Sơn Pháp Khâm. Đan Hà
Thiên Nhiên, người từng theo học Mã Tổ và Thạch Đầu,
lại là môn hạ của Kinh Sơn. Mặt khác, Phục Ngưu Tự Tại
và Đông Tự Như Hội trước có theo học Kinh Sơn nhưng sau
lại chuyển qua làm môn hạ của Mã Tổ. Thiên Hoàng Đạo
Ngộ cũng vậy, sau khi thụ pháp với Kinh Sơn đã thờ Mã Tổ
và Thạch Đầu làm thầy và được chứng ngộ. Lại nữa,
Phù Dung Thái Dục, trước là học trò của Ngưu Đầu Huệ
Trung, sau khi du hành về, nhận được ấn khả của Mã Tổ.
Như vậy, việc các nhà tu đi lai, trao đổi là chuyện rất
thường tình. Giữa khi xu thế của thời đại đã đưa vận
mệnh của Ngưu Đầu sang tay Hồng Châu và Thạch Đầu, họ
dần dần lãng xa Ngưu Đầu và gắn bó với hai tông phái mới
xuất hiện cho nên kết cuộc là hệ phổ của Ngưu Đầu vì
thế mà phải đứt đoạn.
Từ
cuối thế kỷ thứ 8 sang đầu thế kỷ thứ 9, Tịnh Chúng
Tông đã cùng với Ngưu Đầu Tông chiếu sáng như một môn
phái của Thiền Tông sơ kỳ. Các thiền sư như Ích Châu Nam
Ấn (? - 821?), Toại Châu Đạo Viên (tiền bán thế kỷ thứ
9) và Đông Kinh Thần Chiếu (776-838) là những nhân vật tên
tuổi của họ. Như đã có dịp trình bày trước đây, Tịnh
Chúng Tông vào thời kỳ này xem mình như bộ phận của Hà
Trạch Tông. Từ trong hệ thống đó đã thấy xuất hiện Khuê
Phong Tông Mật - người cũng từng theo học Thanh Lương Trừng
Quán - và như Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Bộ Tự cho biết
- Tông Mật là người bảo vệ cho một học thuyết cực kỳ
độc đáo gọi là "Giáo Thiền nhất trí", trong đó, ông lấy
Hoa Nghiêm Tông và Trạch Tông làm trung tâm để kết hợp nhiều
luồng tư tưởng và thực tiễn Phật Giáo lại với nhau. Trong
Nguyên Nhân Luận, ông còn tỏ ra có tham vọng thống nhất
cả Phật giáo với Nho giáo và Lão giáo với nhau nữa.
Qua
tư tưởng của Tông Mật, ta thấy ông có phần nào tỏ ra
chống đối hệ phái Hồng Châu Tông lúc đó đã dần dần
chiếm vị thế ưu việt trong Phật giáo Trung Quốc. Thế nhưng
đứng trước sự hấp dẫn của nhân cách Mã Tổ, Tông Mật
không làm sao đổi hướng được dòng chảy của lịch sử
Thiền Tông. Dù vậy, ta thấy ít nhất ông đã ảnh hưởng
được đến tư tưởng "Giáo Thiền nhất trí" về sau của
Vĩnh Minh Diên Thọ (904-975) thời Ngũ Đại và đến tam giáo
nhất trí, hệ thống chủ lưu của Phật giáo Trung Quốc.
Giai
đoạn hậu bán thế kỷ thứ 9 có thể coi như một lằn ranh.
Sau thời điểm này, hầu như không còn thấy vết tích hoạt
động của các tông phái buổi đầu. Chỉ còn Hồng Châu và
Thạch Đầu viết tiếp dòng lịch sử của Thiền Tông. Khi
hai phái trên đã xác định được địa vị chính thống của
họ thì các môn phái khác đều trở thành bàng hệ.Tuy nhiên
chúng ta không thể nào quên rằng bất luận môn phái nào đều
cũng đã giữ một vai trò trọng yếu trong lịch sử Thiền
Tông.
Sự
nghiệp Khuê Phong Tông Mật:
Ông
người Quả Châu thuộc Tứ Xuyên. Trước học Nho, sau theo
Phật.Năm 25 tuổi xuất gia và thờ Đạo Viên làm thầy. Thế
rồi nhờ biết đến Viên Giác Kinh cũng như tác phẩm của
Đỗ Thuận nhan đề Pháp Giới Quán Môn mà định được lập
trường của mình. Năm 29 tuổi thụ cụ túc giới (chấp nhận
giới luật của người xuất gia), rồi sau đó, vào năm 808,
theo chỉ thị của Đạo Viên, đến học với sư phụ của
ông ta là Kinh Nam Trương (Nam Ẩn) rồi sau đó, ông đi Lạc
Dương, học thiền với đệ tử của Nam Ẩn (và đồng đạo
của Đạo Viên) là Thần Chiếu ở chùa Báo Quốc. Năm 811,
ông lại trau dồi về kinh Hoa Nghiêm dưới sự hướng dẫn
của Thanh Lương Trừng Quán và trở thành tổ thứ năm của
tông Hoa Nghiêm. Qua các trước tác và diễn giảng, danh tiếng
ông nổi như cồn nhưng kể từ năm 821, ông về trú ở Thảo
Đường Tự trên núi Chung Nam, chuyên tâm trước tác những
tác phẩm như Viên Giác Kinh Đại Sớ Sao. Năm 828 đời Văn
Tông (trị vì 826-840), ông được mời vào cung và ban cho áo
tía (tử y). Về sau, chơi thân và hay bàn luận với Tể Tướng
Bùi Hưu (791-864) nên có dịp biên tập lại những đoạn vấn
đáp với ông ta dưới dạng sách thành Bùi Hưu Thập Di Vấn.
Ngoài ra, ông còn viết Khởi Tín Luận Chú Sớ, Vu Lan Bồn
Kinh Sớ, Hoa Nghiêm Kinh Hạnh Nguyện Phẩm Sớ Sao, Chú Hoa Nghiêm
Pháp Giới Quán Môn, Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự,
Nguyên Nhân Luận... Năm 841, ông qua đời ở chùa Thảo Đường.
Bùi Hưu có soạn bài văn bia Khuê Phong Thiền Sư Bi Minh Bình
Tự.
Chương
2
Giai
đoạn Thiền phát triển
và
phân
chia tông phái
Tiết
1: Pháp môn Đông Sơn khai triển
Tiến
về trung nguyên:
Pháp
môn Đông Sơn, dưới sự chỉ đạo và nhờ các hoạt động
của Đạo Tín và Hoằng Nhẫn, gây được sự chú ý của
mọi người. Sau đó, với Pháp Như (638-689), nó lại được
phát triển rộng rãi ở trung nguyên. Đặc biệt dưới thời
Tắc Thiên Vũ Hậu 624-705, trị vì 684-705), người đã lợi
dụng thanh thế của Phật Giáo để lên ngôi hoàng đế, pháp
môn Đông Sơn đã được sự quan tâm của hoàng thất cũng
như cấp quí tộc và sĩ đại phu đến độ Thần Tú (? - 706)
và Huệ An (tức Lão An, 651-739) đã được mời vào nội cung
để cúng dường. Kể từ đó, môn hạ của Thần Tú (tức
là Bắc Tông, đói với Nam Tông là môn hạ của Huệ Năng)
như Phổ Tịch (tức Thiên Chiếu thiền sư, 651-739) và Nghĩa
Phúc (Đại Trí thiền sư, 658-736) có cơ hội đưa tông phái
mình đến chỗ hưng thịnh.
Hết
đời Tắc Thiên Vũ Hậu, qua các đời hoàng đế Trung Tông
(trị vì 684-710), Duệ Tông (trị vì 710-712) và Huyền Tông
(trị vì 712-756) nghĩa là suốt giai đoạn Thịnh Đường (713-770),
Bắc Tông vẫn tiếp tục chiếm ưu thế đến nỗi có được
danh hiệu "Lưỡng kinh pháp chủ, tam đế quốc sư" để xưng
tụng Phổ Tịch, người mà sau khi Thần Tú mất rồi, đã
trở thành một tiêu biểu của dòng Thiền trung nguyên. (Chữ
dùng này thấy chép trong Bồ Đề Đạt Ma Nam Tông Định Thị
Phi Luận. Lưỡng kinh ám chỉ Trường An và Lạc Dương, còn
tam đế tức là 3 vua Trung Tông, Duệ Tông và Huyền Tông).
Về
Ngọc Tuyền Thần Tú:
Ông
người vùng Trần Lưu Úy Thị (tỉnh Hà Nam), họ Lý. Lúc trẻ
theo học nhiều thứ nhưng sau (năm 625) xuất gia và trở thành
đệ tử của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ở Đông Sơn. Sau khi thầy
mất, ông về trụ trì chùa Ngọc Tuyền thuộc Kinh Châu, giáo
hóa nhiều người. Danh tiếng đồn vang trung nguyên, năm 701,
Tắc Thiên Vũ Hậu mới mời ông đến Lạc Dương để tổ
chức cúng dường. Sau đó với tư cách "tam đế quốc sư"
(bậc thầy của ba Hoàng Đế là Vũ Hậu, Duệ Tông và Trung
Tông), ông hoạt động bố giáo ở hai kinh Trường An và Lạc
Dương, cuối cùng mất ở chùa Thiên Bảo Tự ở Lạc Dương
vào năm 706, tương truyền lúc đó tuổi đã hơn trăm. Trung
Tông ban thụy hiệu Đại Thông thiền sư, và để tán dương
công đức của ông, vua mới sắc cho xây Độ Môn Tự ở Kinh
Châu. Có bài văn bia Đường Ngọc Tuyền Đại Thông Thiền
Sư Bi Minh Bình Tự do đại quan và thi nhân cung đình nổi tiếng
đời ấy là Trương Duyệt soạn. Tuy pháp môn Đông Sơn tiến
được vào trung nguyên là do nỗ lực không ngừng của Pháp
Như và Huệ An nhưng việc Thần Tú được phong làm "đế sư"
có ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với sự hưng thịnh của
môn phái. Sau đó Thần Tú và môn hạ sẽ bố giáo rộng rãi
khắp trung nguyên, quyền uy của họ thì những người khác
trong nhóm "Hoằng Nhẫn thập đại đệ tử" cũng phải thừa
nhận.
Về
sự phân biệt Nam Tông Bắc Tông:
Hình
như Nam Tông là cái tên từ xưa tất cả những ai thừa kế
tư tưởng của Đạt Ma và Huệ Khả đều tự xưng. Nguyên
lai của cách xưng hô này, nếu dựa theo bài viết về Pháp
Trùng trong Tục Cao Tăng Truyện thì nó đến từ chữ "Nam Thiên
Trúc nhất thừa tông", có nghĩa là "Một giáo lý ở phía nam
Ấn Độ". Do đó, như đã thấy chép trong Bồ Đề Đạt Ma
Nam Tông Định Thị Phi Luận, thì việc Thần Tú và môn hạ
là những người thuộc Bắc Tông có "tiếm xưng" cho mình là
Nam Tông cũng không có gì đáng làm lạ. Thế nhưng đến lúc
Hà Trạch Thần Hội (684-758) xuất hiện thì, ý nghĩa của
chữ Nam Tông đã thay đổi rất nhiều. Điều đó có nghĩa
là trong quá trình phê phán Thần Tú và môn hạ, Thần Hội
đã dùng chữ Nam Tông theo cái nghĩa "Tông phái thiền ở phía
nam Trung Quốc". Phía nam này trỏ vùng đất phía nam Ngũ Lĩnh,
nó còn là ranh giới của giáo lý thu lại trong những lời
chỉ dạy của tôn sư Huệ Năng (638-713). Theo chủ trương của
Thần Hội, đây mới chính là Nam Tông và nhóm Thần Tú, hoạt
động trong vùng lưỡng kinh, không có tư cách gì để chiếm
đoạt cái tên đó. Thuyết ấy sau này đã được chấp nhận
một cách rộng rãi từ khi đến lượt hệ phái thiền của
Huệ Năng gặp hồi hưng thịnh. Rốt cuộc, lối gọi thiền
Huệ Năng là Nam Tông, thiền Thần Tú là Bắc Tông trở thành
thông dụng. Tuy Bắc Tông là chữ trước kia những phái khác
mượn để chê bai Thần Tú và môn hạ, nhưng ngày nay, vì
tiện lợi, người ta đã dùng nó để chỉ hẳn nhóm ấy mà
không có ý phê phán nào. Không riêng cho một nhóm Thần Tú,
chữ Bắc Tông ấy còn bao hàm tất cả hệ phái xuất phát
từ cửa Hoằng Nhẫn nhưng đứng ngoài nhóm Huệ Năng và sau
đó là nhóm Ngưu Đầu Tông của Pháp Trì (635-702). Quyển sách
này cũng áp dụng cách gọi ấy nhưng dùng chữ Bắc Tông theo
nghĩa hẹp, giới hạn nó trong khung Bắc Tông của hệ phái
Thần Tú-Phổ Tịch.
Phản
ứng đối với Thiền Bắc Tông:
Một
trong những lý do làm cho Thiền Bắc Tông được giới quí
tộc, sĩ đại phu trung nguyên chấp nhận có lẽ vì về một
mặt nào đó, tư tưởng của tông phái họ có chỗ hợp lưu
với dòng chảy chính của giáo lý nhà Phật. Thế nhưng, đây
không hẳn là một đặc tính cố hữu của pháp môn Đông
Sơn, nó là một thứ tư tưởng Đông Sơn mà Thần Tú và môn
hạ đã làm biến chất. Hồi đó, Thần Tú, lãnh tụ của
nhóm, trụ trì ở chùa Ngọc Tuyền vùng Kinh Châu, nơi đây
từng là căn cứ của nhóm Ngọc Tuyền Thiên Thai. Tông Thiên
Thai đã được phát triển rộng rãi nhờ hai vị tăng Hoằng
Cảnh (634-712) và Huệ Chân (673-751). Nên biết rằng tăng Giám
Chân (688-763), học trò của Hoằng Cảnh đã được mời đến
Nhật Bản như một luật sư (tăng nhân chuyên môn về giới
luật Phật giáo) và việc nghiên cứu về giới luật được
nhóm Ngọc Tuyền Thiên Thai hết sức cổ võ. Phổ Tịch (học
trò Thần Tú) đã từng theo học Hoằng Cảnh, lại nữa, học
giả Mật Giáo và Thiên Thai đương thời như Nhất Hành (683-727)
và Thủ Chân (700-770) đều thờ Phổ Tịch làm thầy. Những
điều đó cho thấy môn hạ của Hoằng Cảnh và môn hạ của
Thần Tú thường xuyên giao lưu, cho nên néu có ảnh tưởng
đối với nhau về mặt tư tưởng cũng là việc dễ hiểu.
Giao
lưu giữa Bắc Tông và các tông phái khác:
Hai
tăng Nhất Hành và Thủ Chân vừa là học trò Phổ Tịch vừa
theo học giới luật và giáo lý Thiên Thai với Huệ Chân, vừa
tìm hiểu Mật Tông qua Thiện Vô Úy (637-737). Riêng về Huệ
Chân, tuy là đệ tử của Từ Mẫn Tam Tạng Huệ Nhật nhưng
lại thờ Thừa Viễn, một học trò Thiền học của Xử Tịch
(665-732), làm thầy. Trong cuốn Thiện Vô Úy Tam Tạng Thiền
Yếu (tiền bán thế kỷ thứ 8) của Thiện Vô Úy, có sự
xuất hiện của Kính Hiền (660-723), học trò của Thần Tú.
Cũng vậy, Đạo Tuyền (701-760), người được mời sang Nhật
dạy giới luật như Giám Chân, lại là đệ tử của Phổ
Tịch. Như thế, ta biết được rằng giữa Thiền Bắc Tông,
Mật Tông, Thiên Thai Tông, Luật Tông, thật khó lòng chối
cãi sự quan hệ mật thiết qua giao lưu giữa người với người.
Trong số những văn thư tìm thấy ở Đôn Hoàng đã có Nam
Thiên Trúc Quốc Bồ Đề Đạt Ma Thiền Ngữ Quán Môn, một
bản văn pha trộn lẫn tư tưởng Thiền và Mật Giáo. Đây
cũng là một bằng chứng có những trước tác đã ra đời
nhờ có sự giao lưu giữa các luồng tư tưởng nói trên. Hơn
nữa, vị tổ của tông Thiên Thai Nhật Bản, cao tăng Tối
Trừng (767-822) đã từng tự cho mình là người truyền thừa
Viên - Mật - Thiền- Giới - Tứ Chủng (tức là bốn luồng
tư tưởng Thiên Thai, Mật Giáo, Thiền Bắc Tông và Ngưu Đầu
Tông cũng như Viên Đốn Giới). Tư tưởng "tứ chủng tương
thừa" này của Tối Trừng rõ ràng đã nhất trí với khuynh
hướng "chư tông dung hợp" lúc đó được coi như là mới
mẻ nhất ở Trung Quốc. Mặt khác, tuy không liên quan gì đến
Bắc Tông nhưng việc người nhận pháp tự của Lục Tổ Huệ
Năng là Nam Nhạc Hoài Nhượng (677-744) về sau đã xuất gia
và tu học ở cửa Hoằng Cảnh, thầy của Huệ Chân, cũng
là một sự kiện đáng cho ta chú ý.
Thiền
Bắc Tông nếu được phát triển mạnh mẽ cũng là do sự
bố giáo tích cực của tăng lữ Bắc Tông. Việc tạo ra nghi
thức tiếp nhận Bồ Đề Giới là phương tiện giúp cho thanh
thế của tông phái ngày càng lớn. Trong Đại Thừa Vô Sinh
Phương Tiện Môn, bộ sách cơ sở truyền bá tư tưởng của
nhóm Thần Tú - Phổ Tịch, phần đầu trong lời tựa đã nhắc
đến "Thụ Bồ Tát Nghi Thức". Đây là một bằng chứng về
việc đó. Tuy nhiên nếu đọc các trước tác của Nam Tông
như Lục Tổ Đàn Kinh (thế kỷ thứ 8) hay Nam Dương Hòa Thượng
Đốn Giáo Giải Thoát Thiền Môn Trực Liễu Tính Đàn Ngữ
cũng như nhìn vào các hoạt động của Hà Trạch Thần Hội,
Vô Tướng (684-762) ở Tịnh Chúng Tự, Vô Trú (714-774) ở Bảo
Đường Tự, thì phương pháp bố giáo như thế rất phổ biến
trong thời kỳ đầu của Thiên Tông. Thật ra, việc ban bố
và nhận lãnh Bồ Tát Giới không chỉ giới hạn trong phạm
vi Thiền Tông mà thôi, cho nên có lẽ còn phải giải thích
sức lôi cuốn của nó bằng những lý do khác nữa.
Một
trong những lý do ấy là tính đặc dị của hệ tư tưởng
và phương pháp tu hành của phái Thần Tú - Phổ Tịch. Đối
với giới vương hầu quí tộc, nó tỏ ra hết sức mới mẻ
và kích thích được họ. Về câu hỏi tại sao pháp môn Đông
Sơn đã bành trướng rộng rãi và cuồng nhiệt ở vùng lưỡng
kinh như vậy, chắc phải giải thích bằng tính hiếu kỳ của
người đời. Thời ấy, có rất nhiều nhân vật nổi tiếng
giao du với Bắc Tông. Trong nhóm họ, ta có thể kể ra chẳng
hạn Trương Duyệt (667-730), người viết văn bia Thần Tú,
Vương Tấn (699-781), học trò Phổ Tịch, Lý Ung (678-747), người
viết văn bia Phổ Tịch và Nghiêm Đĩnh Chi (673-742) đã qui
y với Đại Trí thiền sư Nghĩa Phúc và sau cũng viết văn
bia về ông.
Không
khí sôi nổi ấy đã gây ra một kích thích lớn đối với
những nhà truyền giáo Tịnh Độ Tông, lúc đó vừa mới trở
nên hưng thịnh nhờ những nỗ lực của Thiện Đạo (613-681).
Lý do là từ khi có pháp môn Đông Sơn, những người theo Thiền
Tông phủ định hoàn toàn giá trị phương pháp tu hành mà
họ gọi là của "người ốm đau", "kẻ ngu muội", nói cách
khác, phép tu theo lối niệm Phật để có cái tâm thanh tĩnh
(tịnh tâm) và sau đó chờ cho Phật độ vãng sanh cực lạc.
Việc Thiền Tông bành trướng được thế lực rộng lớn
như thế chắc chắn không phải là điều mà những nhà tu
Tịnh Độ Tông phái Thiện Đạo mong mỏi.
Vì
lý do trên, phái Tịnh Độ bắt đầu biện bác để đối
kháng lại Thiền Tông. Để hiểu điều đó, ta có thể xem
trước tác nhan đề Thích Tịnh Độ Quần Nghi Luận (Giải
thích những điểm nghi ngờ về phái Tịnh Độ, khoảng cuối
thế kỷ thứ 7) do Hoài Cảm (năm sinh năm mất không rõ), một
đệ tử của Thiện Đạo, viết ra. Tuy nhiên quyển sách đáng
chú ý nhất vẫn là Tịnh Độ Từ Bi Tập của Từ Mẫn Tam
Tạng Huệ Nhật (680-748) bởi vì trong đó, ngoài việc đưa
ra những phản biện từ phía tông Tịnh Độ lại còn có những
luận cứ sâu sắc và thú vị nhằm phê phán Thiền Tông mà
trước kia chưa ai viết được. Đó là những thông tin vô
cùng hữu ích cho những ai muốn tìm hiểu bộ mặt của Thiền
Tông buổi đầu.
Nhân
nói về Tịnh Độ Từ Bi Tập của Từ Mẫn Tam Tạng Huệ
Nhật:
Huệ
Nhật sinh năm 680 ở Lai Châu thuộc tỉnh Sơn Đông, tục danh
họ Tân. Năm 702, mến mộ Nghĩa Tĩnh Tam Tạng (635-713) vừa
đi Ấn Độ về, ông theo dấu, lấy đường biển sang bên
đó tu học. Sau khi tìm thăm các di tích Phật giáo, ông định
đi đường bộ về nước. Tương truyền, lúc đang ở trên
đường đi, ông đã nhìn thấy được Quan Âm ở một hòn
núi lớn phía đông bắc vương thành nước Kiến Đà La. Mãi
đến năm 719, ông mới về tới Trường An, mang những đồ
vật thu thập bên đó dâng lên vua Huyền Tông (trị vì 712-756)
và được tứ hiệu Từ Mẫn Tam Tạng. Sau đó, ông tập trung
tham gia hoạt động bố giáo ở khu vực Trường An và Lạc
Dương nhưng nhân vì có Thừa Viễn (712-802), học trò cũ của
ông, đang ở Quảng Châu (tỉnh Quảng Đông) nên Huệ Nhật
tìm cách đi xuống tận đó. Ông mất năm 748, thọ 69 tuổi.
Về trước tác, ngoài Lược Chư Kinh Luận Niệm Phật Pháp
Môn Vãng Sanh Tịnh Độ Tập (lược xưng Tịnh Độ Từ Bi
Tập), ông còn viết Bàn Châu Tam Muội Tán, Bàn Châu Tán, Yếm
Thử Ta Bà Nguyện Sinh Tịnh Độ Tán, Tây Phương Tán vv....
Tịnh Độ Từ Bi Tập chỉ còn bản truyền lại nhưng không
được toàn hảo, do Ono Genmyô (Tiểu Dã, Huyền Diệu) tìm
được ở chùa Đồng Hoa, Triều Tiên vào năm 1925. Tổ bản
của nó là bản của Nguyên Chiếu (1048-1116) đời Tống nhưng
khi nó vừa mới ra đời đã gặp sự chống đối của Đại
Mai Sơn Pháp Anh thiền sư (? - 1131) về nội dung nên đã bị
lệnh quan bắt phải phế bản. Vì cớ đó, tổ bản không
được truyền lại. May mắn là ngay trước khi ấy, có một
bản đã được truyền sang Cao Lệ (thuộc Hàn Quốc bây giờ)
vào tay của Nghĩa Thiên (1055-1101) cho nên mới có bản Triều
Tiên cho đời sau.Theo lời tựa, nó gồm 3 quyển, quyển đầu
nêu ra những lối nghĩ sai lầm của người đương thời, đặt
vấn đề về chúng, quyển thứ hai chứng minh qua lý luận
tính chính thống của lối tu bằng niệm Phật theo Tịnh Độ
Tông, quyển cuối trả lời mọi nghi vấn về giáo phái Tịnh
Độ và nói lên sự ưu việt của việc niệm Phật. Tuy có
thất thoát phần nào nhưng sách ấy được xem như một ghi
chép quí giá có một không hai liên quan đến Thiền Tông.
Tư
tưởng của thiền Bắc Tông với hệ phái Thần Tú - Phổ
Tịch:
Muốn
hiểu hệ tư tưởng chủ yếu của Thiền Bắc Tông với hai
đại sư Thần Tú và Phổ Tịch, phải tìm đọc những luận
thuyết về cương yếu như Quán Tâm Luận, Đại Thừa Vô Sinh
Phương Tiện Môn, Đại Thừa Ngũ Sinh Bắc Tông (đều ra đời
vào tiền bán thế kỷ thứ 8), các minh văn trên bia liên quan
đến các nhân vật Bắc Tông cũng như các đăng sử đã được
nhắc đến bên trên: Lăng Già Sư Tư Ký (khoảng năm 715) và
Truyền Pháp Bảo Ký (khoảng 720).
Theo
những tài liệu này, Bắc Tông nhấn mạnh đến giá trị tuyệt
đối của phép tu hành gọi là "quán tâm", cho rằng các phép
tu hành khác đều vô hiệu khi đứng trước nó. Họ đặt
trọng tâm vào thể nghiệm ngộ đạo của người tu hành bằng
phương pháp này, gọi nó là cảnh giới "đốn siêu bồ đề".
Do đó, khác với lối nghĩ thông thường của người đời
sau, trong giai đoạn thiền Bắc Tông, không còn nghi ngờ gì
nữa, đã có tư tưởng "đốn ngộ" rồi. Rõ ràng khái niệm
"quán tâm" của Bắc Tông đã thừa kế tư tưởng "thủ tâm"
của Pháp môn Đông Sơn. Không những thế, chủ trương"niệm
Phật" là một thành tố trọng yếu, đã chứng tỏ một lần
nữa có sự liên tục giữa hai giáo lý (tuy rằng họ không
đề cập tới kết quả của việc niệm Phật là vãng sinh
cực lạc).
Thiền
Bắc Tông rất lưu ý đến lối chú thích kinh điển rất đặc
thù của mình mà họ gọi là "quán tâm thích", còn đọc là
"tâm quán thích". Những câu chữ của kinh điển, theo họ,
phải được hiểu sao cho ăn khớp với những hiện tượng
đang xãy ra trong tâm. Ví dụ trong Đại Thừa Vô Sinh Phương
Tiện Môn có viết những câu điển hình như sau:
Tuy
có cuốn kinh mang tên Diệu Pháp Liên Hoa, thế nhưng hỏi thử
"diệu pháp" là gì? "Diệu pháp" chính là cái "tâm", còn "liên
hoa" là "sắc" vậy. Nếu "Tâm" là "như", nó cũng là "trí" nữa,
còn nếu "sắc" là "như", nó lại là "tuệ". Tóm lại, kinh
ấy có nghĩa là "kinh của trí tuệ".
Một
mặt, thiền Bắc Tông coi trọng một cách tuyệt đối thể
nghiệm "ngộ" bằng phương pháp quán tâm, nhưng mặt khác,
vì không thể phủ nhận quyền uy của kinh điển nên họ bắt
buộc đứng trên lập trường của kinh điển để giải thích
chữ "ngộ" theo một cách riêng, và đã cố gắng tìm cách
hòa hợp được hai lối hiểu đó.
Cùng
với thời gian, lối hiểu như trên của Bắc Tông càng ngày
càng được phổ biến. Không những thế, nó còn khoác thêm
phần nào tính cách nội tâm và thần bí hóa. Chính ra tính
cách này đã có sẳn trong giáo lý Thiên Thai Tông, nhờ có
những giao lưu giữa người và người mà Bắc Tông đã tiếp
nhận ảnh hưởng. Ta có thể rút ra từ đó một nhận định
căn bản: sở dĩ Thiền Tông và Thiên Thai Tông có cùng cơ
sở là vì hai hệ phái đều ra đời để giải quyết những
vấn đề tâm linh chung của thời đại họ sống.
Ngoài
ra, có một điểm đáng chú ý nơi thiền Bắc Tông mà Lăng
Già Sư Tư Ký đã đề cập tới, đó là phương pháp giáo
huấn gọi là "chỉ sự vấn nghĩa". Vị thầy thường chỉ
một vật cụ thể rồi đặt câu hỏi, giúp học trò hiểu
vấn đề một cách cao siêu hơn mức độ nhận thức thông
thường và nhờ đó đạt đến cảnh giới của "ngộ". Xin
đơn cử ví dụ sau đây trong chương nói về Thần Tú. Ông
thấy chim bay qua, mới đặt một loạt câu hỏi cho đệ tử
kiểu như "Đó là cái gì đấy?", hay "Ngồi trên ngọn cây
ẻo lả, mất thăng bằng, ngươi có thể tọa thiền chăng?"
hoặc là "Ngươi có đi xuyên qua bức tường không?". Về nội
dung thì những câu hỏi đó sau này rất giống "công án" về
sau. Có điều là vào thời đó, chúng đã được sử dụng
như thế nào thì đến bây giờ vẫn không ai rõ.
Như
thế, ta thấy dòng chính trong thiền Bắc Tông là tư tưởng
của nhóm Thần Tú - Phổ Tịch. Thế nhưng qua các văn bản
chủ chốt của thiền Bắc Tông trong đó có Đại Thừa Ngũ
Phương Tiện, ta thấy họ cũng chấp nhận những dị biệt
của các hệ phái chứng tỏ tư tưởng của tông này có nhiều
biến thể (variations) chứ không phải đồng nhất. Hơn nữa,
ngoài Thần Tú, Hoằng Nhẫn còn nhiều học trò khác cho nên
tuy tóm gọn lại một chữ Bắc Tông Thiền, nên hiểu rằng
bên trong, tư tưởng của nhóm người này cũng rất đa dạng.
Văn
bản Bắc Tông của hệ phái Thần Tú - Phổ Tịch:
Quán
Tâm Luận có bản Đôn Hoàng, bản Triều Tiên và truyền bản
của Nhật Bản. Truyền bản này có tên Quán Tâm Phá Tướng
Luận hay Phá Tướng Luận. Tương truyền sách ấy được soạn
bởi Đạt Ma hay Thần Tú nhưng có thể hiểu đây là một
thứ cương lĩnh (cương yếu thư) do môn hạ của Thần Tú
trước tác. Việc gán nó cho Đạt Ma có lẽ mãi về sau mới
xảy ra. Nội dung của nó giảng giải phương pháp tu hành gọi
là "quán tâm" trình bày theo lối vấn đáp.
Mặt
khác, Đại Thừa Vô Sinh Phương Tiện Môn và Đại Thừa Ngũ
Phương Tiện Bắc Tông, là hai trong những văn bản được
gọi dưới tên chung Đại Thừa Ngũ Phương Tiện. Về cơ bản,
nội dung của chúng giống nhau nhưng quyển trước có hình
thức cổ xưa trong khi quyển sau mới mẻ hơn. Nhóm văn bản
này đều viết theo một mục lục, khởi đầu với lời tựa
rồi đến 5 chương "Tổng Thái Phật Thể", "Hiển Bất Tư
Nghị Môn", "Minh Chư Pháp Chính Tính", "Tự Nhiên Vô Ngại Giải
Thuyết Đạo" rồi sau trích dẫn các kinh điển như Đại Thừa
Khởi Tín Luận, Duy Ma Kinh, Tư Ích Kinh...dùng một thủ pháp
đặc dị là "quán tâm thích" để giải thích và khai triển
chúng, phần nhiều là khác xa đối với ý nghĩa ban đầu.
Tuy đại cương tư tưởng trong Đại Thừa Ngũ Phương Tiện
hầu như ta đã bắt gặp nơi Thần Tú nhưng có cảm tưởng
chúng đã được chỉnh lý lại bởi những người thuộc hệ
phái Phổ Tịch. Ngoài ra, Tĩnh Giác, tác giả Lăng Già Sư Tư
Ký, đã viết sách chú thích nhan đề Chú Bát Nhã Ba La Mật
Đa Tâm Kinh. Bên cạnh đó, Kim Cương Tạng Bồ Tát Chú, một
cuốn kinh mà toàn bộ được chú thích bằng phương pháp "quán
tâm thích" cùng với Kim Cương Bát Nhã Kinh Chú, Quán Thế Âm
Kinh Tán đều là những tác phẩm có liên hệ mật thiết với
dòng chính của thiền Bắc Tông.
Tính
đa dạng của thiền Bắc Tông
Trong
số những môn đệ của Hoằng Nhẫn, người có tư tưởng
cách tân hơn cả có lẽ là Tào Khê Huệ Năng (về sau sẽ
được tôn xưng là Lục Tổ Đại Giám Huệ Năng) dù những
lời giáo huấn của chính Huệ Năng ra sao, đến nay vẫn chưa
ai thực sự biết rõ. Còn như Huệ An, người cũng được
Tắc Thiên Vũ Hậu trọng vọng như Thần Tú, về mặt tư tưởng
cũng có điểm khác với Thần Tú. Ngược lại, Huệ An lại
có nhiều điểm chung với Huệ Năng.
Nam
Nhạc Hoài Nhượng, kẻ về sau sẽ đóng vai trò quan trọng
trong lịch sử Thiền Tông, trước đó cũng nhờ Huệ An mà
có cơ hội đến thọ giáo với Huệ Năng. Thế rồi, trước
khi Huệ An mất, ông cũng chỉ thị cho đệ tử là Tĩnh Tạng
đến tu học với Huệ Năng. Cũng nên nhắc đến Bảo Đường
Tự Vô Trú, trước theo học môn đệ của Huệ An là cư sĩ
Trần Sở Chương (năm sinh năm mất không rõ), sau đó đã tham
học ở cửa Thái Nguyên Tự Tại (năm sinh năm mất không rõ),
một môn đệ khác của Huệ Năng, rồi xuất gia sau đó. Những
sự kiện nói trên chứng minh rằng thiền pháp của Huệ An
và Huệ Năng có nhiều điểm tương đồng và hình như giữa
hai ông đã có một sự tin tưởng đối với nhau.
Gần
đây lại có người nêu ra việc Hầu Mạc Trần Diễm (660-714),
một người có tên trong hệ phổ Bắc Tông nhưng lại có nhiều
điểm hết sức gần gũi Hà Trạch Thần Hội. Nhân vì ông
vừa theo học Thần Tú lẫn Huệ An, có thể phỏng đoán rằng
nhờ theo học Huệ An nên tư tưởng của ông mới tiên tiến
như thế.
Sự
xuất hiện của Hầu Mạc Trần Diễm và Trần Sở Chương
là những cư sĩ mà đã đạt đến cảnh giới cao để có
thể chỉ đạo về thiền cho người đã xuất gia là một
điều đáng chú ý. Nó cho ta thấy một điều thú vị là tuy
mới xuất hiện, Thiền đã lôi cuốn được sự chú ý của
mọi người, ngay cả những người thế tục bình thường.
Hầu
Mạc Trần Diễm là ai?
Một
nhân vật xưa nay ít ai chú ý nhưng kể từ khi xuất hiện
trước tác của ông mang tên Đốn Ngộ Kim Cương Bát Nhã Tu
Hành Đạt Bỉ Ngạn Pháp Môn Yếu Quyết (năm 712, bản Đôn
Hoàng, có một đôi chỗ đã được dịch sang tiếng Tây Tạng)
và Hầu Mạc Trần Đại Sư Thọ Tháp Minh (kim thạch văn) thì
tư tưởng và truyện ký sơ lược về ông mói được biết
đến. Theo đó, ông người quê Trường An, bỏ công tu hành
trên hai mươi năm trên ngọn Tung Sơn. Ông theo học Huệ An
và Thần Tú, rốt cuộc nhận pháp tự của Thần Tú với pháp
danh là Trí Đạt. Sau đó, ông truyền giáo cho tăng ni và cư
sĩ chủ yếu ở các vùng Trường An, Lạc Dương, Sơn Tây,
Hà Bắc. Ông là người sinh ra trước Thần Hội một thế
hệ mà đã nhấn mạnh về đốn ngộ, chú trong kinh Kim Cương
và để lại tác phẩm viết theo lối vấn đáp, tư tưởng
lại có nhiều chỗ tương tự với Thần Hội, người ta bắt
đầu nhận thức trở lại vai trò của ông trong những năm
gần đây.
Trong
số môn đệ của Hoằng Nhẫn, những người có thể so sánh
với Huệ Năng và Huệ An là hai nhân vật tên Trí Sằn (609-702)
và Tuyên Thập (năm sinh năm mất không rõ. Các ông đã khai
sinh ra ở Tứ Xuyên một môn phái riêng. Đặc biệt từ cửa
Trí Sằn có Xử Tịch (665-732) và Vô Tướng (684-762) vốn có
công phổ biến giáo nghĩa ở địa phương này. Nhân vì Vô
Tướng là dòng dõi hoàng tộc Tân La họ Kim cho nên được
gọi là Kim Hòa Thượng. Tên tuổi ông cả người Tây Tạng
cũng biết. Môn phái của hai ông lấy Tịnh Chúng Tự ở Thành
Đô làm cơ sở, do đó, có tên là Tịnh Chúng Tông. Đề tử
của Vô Tướng là Tịnh Chúng Tự Thần Hội (720-794) và Huệ
Nghĩa Tự Thần Thanh (năm sinh năm mất không rõ) là người
đã viết Bắc Sơn Lục (khoảng năm 806). Sau đó, hệ phổ
của Tịnh Chúng Tự còn được nối tiếp như sau: Tịnh Chúng
Tự Thần Hội truyền cho Ích Châu Nam Ấn (Duy Trung, ? - 821?),
ông này có hai đồ đệ là Toại Châu Đạo Viên (? - 807 hay
822?), và Đông Kinh Thần Chiếu (776-838).
Trong
số những trứ tác của Tịnh Chúng Tông có Bát Nhã Tâm Kinh
Sớ (bản Đôn Hoàng, giữa thế kỷ thứ 8) được gán cho
Trí Sằn. Tư tưởng của ông cũng được đề cập đến trong
Viên Giác Kinh Đại Sớ Sao của Khuê Phong Tông Mật (780-841)
cũng như trong cuốn đăng sử của tông Bảo Đường nhan đề
Lịch Đại Bảo Pháp Ký (hậu bán thế kỷ thứ 8). Theo các
tư liệu đó, mỗi năm, người trong tông này thiết lập đạo
tràng vào một ngày giờ nhất định, tụ tập đông đảo
các nhà tu hành dù là tại gia hay là xuất gia lại để thực
hành nghi lễ niệm Phật và tọa thiền. Mục đích là để
chỉ đạo mọi người đạt đến chỗ "vô ức" (không nhớ
tới), "vô niệm" (không nghĩ tới), "mạc vọng"(không trông
mong tới), gọi đó là "tam cú ngữ", xem nó đồng dạng với
"tam học" tức là giới, định, tuệ (tuy vậy, trung tâm của
tư tưởng đó hình như vẫn đóng khung ở trong mỗi một chữ
"vô niệm"). Hình như tư tưởng "tam cú"này là một sáng tạo
của tăng Vô Tướng và cũng có thể xem nó như một nét đặc
thù của tông phái ông lãnh đạo. Theo Tông Mật, phái của
Tuyên Thập cũng làm theo một nghi thức tương tự như vậy
nhưng trong dịp này, họ hay dùng hương, và có lẽ ấy là
một trong những điểm khác nhau.
Khi
các giáo phái nói trên bành trướng ở miền Tứ Xuyên, đặc
biệt là vào buổi đầu, nghi thức niệm Phật được xem hết
sức trọng yếu. Đệ tử của Từ Mẫn Tam Tạng Huệ Nhật
là Nam Nhạc Thừa Viễn (712-802) thời trẻ cũng đến hỏi
đạo Xử Tịch, và từ cửa của ông đã xuất hiện Pháp
Chiếu (năm sinh năm mất không rõ) là người nổi tiếng vì
đại thành được "ngũ hội niệm Phật". Riêng môn phái của
Tuyên Thập, không rõ có giáo lý gì, nhưng họ được Tông
Mật gọi là Nam Sơn Niệm Phật Thiền Tông, cũng thực hành
nghi lễ truyền pháp có nghi thức niệm Phật. Do đó có thể
hiểu việc niệm Phật lúc ấy được người đi tu xem như
hết sức hệ trọng. Duy có điểm cần chú ý là chính việc
niệm Phật này vốn là một phương pháp tu hành chủ yếu
của pháp môn Đông Sơn, từ đó suy ra, chắc những người
thời này cũng cứ thế mà tiếp tục theo dấu người đi trước.
Những
thiền gia hoằng pháp ở vùng Tứ Xuyên có mối quan hệ đáng
chú ý đối với Tịnh Độ Giáo nhưng đồng thời họ cũng
liên quan mật thiết với các giáo phái Phật Giáo khác nữa.
Về sau sẽ có dịp nhắc lại nhưng việc một người như
Khuê Phong Tông Mật coi như là kẻ có tham vọng gộp hai phái
Hoa Nghiêm và Thiền Tông làm một, đã dần dần tạo lập
được mối liên hệ với những người từ Nam Ấn trở về
sau để hoàn thành được hệ tư tưởng của mình, là một
điều rất quan trọng. Lại nữa, cũng không nên quên rằng
thiền sư Mã Tổ Đạo Nhất (709-788) ở trung nguyên thời trẻ
cũng từng thờ Xử Tịch (phái Tứ Xuyên) làm thầy.
Bát
Nhã Tâm Kinh Sớ:
Quyển
Bát Nhã Tâm Kinh Sớ tức sách chú thích về kinh Bát Nhã, bản
Đôn Hoàng, được xem là do Trí Sằn (609-702) soạn, thế nhưng
nội dung của nó hết sức giống tác phẩm của Kỷ Quốc
Tự Huệ Tịnh (578-?). Phải chăng có ai đã cải biên và gán
nó cho Trí Sằn. Hình thức của kinh này có được như ngày
nay ta thấy là do công trình của những người thuộc Tịnh
Chúng Tông, vốn tôn sùng Trí Sằn như giáo tổ.
Thật
ra, nguồn gốc của cuốn kinh nói trên là một câu chuyện
hết sức phức tạp, lịch sử hình thành của nó đã bắt
đầu trước cả thời này rồi. Trước hết, ngay cả trong
bản được truyền vào đất Nhật ( Huệ Tịnh Sớ, Tục Tạng
Bản) ở cuối sách đã thấy in tiếp theo một bộ phận của
Tu Tâm Yếu Luận (tương truyền của Hoằng Nhẫn), hình như
đã được người của Thiền Tông buổi đầu gìn giữ và
truyền lại. Nhân vì tác phẩm vẫn có một mối liên quan
mật thiết với họ nên nội dung từ từ đã có sự đổi
khác, nếu ta so với các bản Đôn Hoàng có tên như Đôn Hoàng
Bản Huệ Tịnh Sớ hay Long Cốc Đại Học Bản Bát Nhã Tâm
Kinh Sớ. Điều này chứng tỏ rằng sách chú sớ của tăng
Huệ Tịnh (Huệ Tịnh Sớ) đã được chấp nhận rộng rãi.
Tác giả Huệ Tịnh lại là người có tài văn chương nên
còn có thể giải thích sự phổ cập của nó phần nào cũng
nhờ vào cả văn thể lẫn nội dung. Mặt khác, việc sách
ấy có nhiều dị bản tự thể nó là một đề tài thú vị,
nhưng điều đáng chú ý hơn cả là giữa các bản Tục Tạng
Bản Huệ Tịnh Sớ và bản của Long Cốc Đại Học và Trí
Sằn Sớ, ta thấy có một sự phát triển về mặt tư tưởng.
Hơn nữa, qua các bản đó, ta thấy có dấu vết ảnh hưởng
tư tưởng của nhóm Thần Tú - Phổ Tịch lẫn nhóm Tịnh Chúng
Tông. Nói tóm lại, sự phát triển từ Huệ Tịnh Sớ đến
Trí Sằn Sớ là ví dụ điển hình về việc một văn bản
nguyên lai được viết ra không dính dáng gì đến Thiền Tông,
đã được người của Thiền Tông giữ gìn và truyền lại
đời sau, rồi nhờ đó mà được chỉnh đốn để đạt đến
chỗ hoàn chỉnh.