Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

3. Lưỡng Tổ Đại Sư

11 Tháng Tư 201100:00(Xem: 11525)
3. Lưỡng Tổ Đại Sư

THIỀN TÀO ĐỘNG NHẬT BẢN
Nguyên tác: Azuma Ryushin (Đông Long Chơn) - Việt dịch: Thích Như Điển
Chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc và quý Phật Tử tại Mỹ Châu – Úc Châu ấn tống 2008

Chương một: 
Tôn Giáo của Chúng Ta 
Tào Động Tông 

II. Tào Động TôngLịch Sử Hình Thành

II.3 Lưỡng Tổ Đại Sư

Thiền Sư Đạo Nguyên
Thiền Sư Oánh Sơn

II.3.1 Lưỡng Tổ

Giống như những Tông Phái khác, Tông Tào Động gọi Tổ Sư là Lưỡng Tổ. Tác phẩm “Tào Động Tông Tông Chế” cho rằng: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Bổn Tôn. Cao Tổ Thừa Dương Đại Sư (Jojo Daishi) và Thái Tổ Thường Tế Đại Sư (Josai Daishi) là Lưỡng Tổ. Điểm đặc biệt của Tông Tào Động là một Tông có hai vị Tổ cho nên gọi là Lưỡng Tổ, không sử dụng thuật ngữ Tông Tổ.

Lưỡng Tổ, theo văn tự, nghĩa là hai vị Tổ Sư, khai sáng Tông Tào Động. Thiền Sư Đạo Nguyên, còn gọi là Thừa Dương Đại Sư, do Minh Trị Thiên Hoàng sắc phong Đại Sư, được truy phong là Cao Tổ. Thiền Sư Oánh Sơn, do Minh Trị Thiên Hoàng sắc phong là Thường Tế Đại Sư, người xiển dương và quảng bá giáo điển của Thiền Sư Đạo Nguyên nên được gọi là Thái Tổ. Trong tác phẩm nầy, không gọi Thiền Sư Đạo NguyênĐại Sư, Cao Tổ mà chỉ gọi là Thiền Sư Đạo Nguyên, cũng không gọi Đạo Hiệu Đại Sư của Thái Tổ, mà chỉ gọi là Thiền Sư Oánh Sơn mà thôi, thậm chí cũng chẳng dùng chữ Thừa Dương Đại Sư để xưng tán Thiền Sư Oánh Sơn, có lẽ gọi như thế để cho mọi người dễ cảm hơn, thân thiện hơn và gần gũi hơn và biết đến nhiều hơn. Cao Tổtổ phụ, Tổ phụ của Tổ phụ gọi là Cao Tổ Phụ, còn có nghĩa là Tiên Tổ, những đời trước xa thật là xa. Những vị Thiên Tử đầu tiên của Trung Hoa khai mở những vương triều cũng được gọi là Cao Tổ, như Hán Cao Tổ (Hán Lưu Bang); Đường Cao Tổ (Đường Lý Nguyên) rất là nổi tiếng. Mỗi Tông mỗi phái đều có vị khai Tổ được gọi là Cao Tổ như Cao Tổ Hoằng Pháp Đại Sư; Cao Tổ Nhật Liên Đại Bồ Tát v.v… 

Thái Tổ là vị khởi sự kế thừa, mà vốn chỉ cho những vị Đế Vương đời kế thừa đầu tiên, ở Trung Hoa và bán đảo Triều Tiên như thời Hậu Lương có Châu Toàn Trung, thời Nguyên có Jingisukan Thành Cát Tư Hản, ở Cao Ly có Vương Kiến v.v... được gọi là Thái Tổ. Ngoài ra, có một số Tông Phái có một vị Cao Tổ còn gọi là Thái Tổ, như Thái Tổ Thân Loan Thánh Nhơn được xưng tán rất là quen thuộc. Dù được gọi là Cao Tổ hay Thái Tổ, đều là bậc trưởng thượng, những vị Tổ đời trước là những vị Thỉ Tổ vậy. Nhưng danh hiệu tuyên xưng như Cao Tổ hay Thái Tổ được chấp nhậnquyết định tại hội nghị Đại Bổn Sơn Quản Thủ vào năm Minh Trị thứ 10 . Tông Tào Động còn gọi các vị Tổ Sư như Cao TổNghiêm Phụ còn Thái TổTừ Mẫu.

II.3.2 Cao Tổ Đạo Nguyên Thiền Sư

Nếu cho rằng mỗi Tông có mỗi Tổ Sư, đặc biệt với Tông Tào Động hoàn toàn không phải, mà gọi là Lưỡng Tổ. Tại sao có đến hai vị Tổ? Bởi vì giáo đoàn Tông Tào Động do hai vị Thiền Sư Đạo NguyênThiền Sư Oánh Sơn thành lập, hay nói cách khác nếu không có hai vị Thiền Sư Đạo NguyênThiền Sư Oánh Sơn thì không có Tông Tào Động

Thiền Sư Đạo Nguyên là vị Tổ Sư được truyền thừa gián tiếp từ Đức Thích CaẤn Độ, qua các vị Tổ Trung Hoa, cuối cùng thực hành pháp môn tọa thiền, từ đó mạng mạch Phật Pháp được truyền thừa vào Nhật và tạo thành phong cách riêng biệt. Hơn nữa, Thiền Sư Đạo Nguyên soạn tác phẩm “Phổ Khuyến Tọa Thiền Nghi” giảng rõ ý nghĩaphương pháp tọa thiền dựa trên căn bản người Nhật. Vấn đề tại sao Tọa Thiền là đúng chánh pháp được giải thích rõ ràng hơn trong tác phẩm “Biện Đạo Thoại”. Ở Nhật ngôi Chùa chủ trương thành lập đạo tràng tọa Thiền đầu tiên đúng chánh Pháp là Chùa Hưng Phước Tự, Kyoto, phương pháp hành trì như thế nào được ghi rõ trong tác phẩm “Học Đạo Dụng Tâm Tập”, ngay cả sáu tác phẩm “Vĩnh Bình Thanh Quy” (Eihei Shingi) cũng ghi lại những vấn đề như truyền thống hành trì, sinh hoạt Chùa Viện, pháp môn tọa Thiền ở Nhật và những Thanh Quy, quy củ trong đạo tràng v.v... Nhật Bản cũng là quốc gia cử hành lễ Phật Thành Đạo, kỷ niệm ngày giác ngộ của Đức Thích Tôn, một việc làm vô cùng ý nghĩa về phương diện lịch sử, minh xác nguồn gốc Phật Giáo. Ngoài ra, tác phẩm “Chánh Pháp Nhãn Tạng” gồm 95 quyển giải thích rõ những pháp môn tọa Thiền nguyên thỉ, thuần túy Phật Giáo ở Nhật.

Như vậy, Thiền Sư Đạo Nguyên minh định Phật Pháp có chỗ đứng rất thuần túychính thống ở Nhật. Thời Ngài, thế hệ đệ tử đầu tiên như Hoài Tráng được chăm sóc kỹ lưỡng để tiếp tục kế thừa mạng mạch Phật Pháp, những chùa như Hưng Thánh Tự, Vĩnh Bình Tự ở huyện Fukui được xây dựng thật đẹp. Do vậy, phải nói rằng Thiền Sư Đạo Nguyên xứng đáng được tôn xưng là một vị Tổ Sư chính thống.

II.3.3 Thái Tổ Oánh Sơn Thiền Sư

Thiền Sư Đạo Nguyên viên tịch lúc mới 54 tuổi. Chùa Vĩnh Bình xảy ra nhiều điều không vui trong một thời gian khá lâu, suốt thời Thiền Sư Hoài Tráng, đời thứ hai và Thiền Sư Nghĩa Giới, đời thứ ba, Tăng Đoàn bị hỗn loạn về tư tưởng, bè phái và tình cảm v.v... nội bộ xảy ra những cuộc tranh chấp kịch liệt, thời gian được gọi là “Vĩnh Bình Tự Tam Đại Tương Luận” hay “Vĩnh Bình Tự Nội Bộ Phân Tranh”. Người chứng kiến tất cả ngọn ngành của thời gian nầy là Thiền Sư Oánh Sơn, đệ tử dễ thương của Thiền Sư Nghĩa Giới

Thiền Sư Oánh Sơn là người có căn cơ khế hợp, chịu khó lắng nghe và lãnh thọ kinh nghiệm truyền thừa đúng Chánh Pháp của Tông Phong Vĩnh Bình Đạo Nguyên. Thế cho nên không những Ngài ổn định được mọi sự tranh chấp đối lập mà còn dung hòa thống nhất tất cả mọi quan điểm với hoài mong tiếp nối sứ mệnh người xưa, duy trì mạng mạch Phật Pháp và làm sao cho Phật pháp duy trì được xiển dương quảng bác. Ngài còn nhận lãnh trách nhiệm từ Thiền Sư Nghĩa Giới, mở chùa Đại Thừa, huyện Ishikawa về sau trở thành đời thứ hai. Ngài còn mở chùa Vĩnh Quang Tự, Tổng Trì Tự - Sojiji, nguyên thỉ ở huyện Ishikawa, phát triển một số việc làm cụ thể như:

Thứ nhứt, tiếp nối việc hành trì pháp môn Tọa Thiền như là căn bản của Tông phong, mà Thiền Sư Đạo Nguyên truyền lại. Tự bản thân Ngài tinh tấn thực hành Thiền Tọa rất nghiêm mật, chính trong tác phẩm “Động Cốc Ký” Ngài tự thuật rằng: “Cuộc đời suốt 41 năm dài kể từ khi xuất gia, chưa bao giờ nghỉ tọa Thiền một ngày nào cả”.

Thứ hai, lãnh thọ pháp môn tọa thiền của Thiền Sư Đạo Nguyên trong “Phổ Khuyến Tọa Thiền Nghi”, ghi lại tất cả những điều vi diệu, những sở đắc trong thời gian tinh tấn thực hành Thiền định, trong tác phẩm “Tọa Thiền Dụng Tâm Ký” khiến cho nhứt thời Thiền tọa phổ biến khắp mọi nơi.

Thứ ba, căn cứ “Vĩnh Bình Thanh Quy”, thanh quy lý tưởngdựa vào nguyên tắc thích hợp, để bổ sung thêm và biên soạn tác phẩm “Oánh Sơn Hòa Thượng Thanh Quy”, mà trong Thanh Quy nầy phân định rõ ràng những công việc lễ bái từng ngày, từng tháng và từng năm một cách cụ thể. Tác phẩm “Oánh Sơn Hòa Thượng Thanh Quy” về sau hầu như được ứng dụng trong các đạo tràng tu hành của những tự viện thuộc Tông Tào Động, được xem như quyển sách gối đầu để thực hành, không ai mà không biết đến.

Thứ tư, lập trường của Thiền Sư Đạo Nguyên rất chính thống, thuần túy và nhứt quán được ghi lại trong tác phẩm “Truyền Quang Lục”. Tác phẩm nầy giải thích rõ những vấn đề truyền thống, lịch sử, tâm linh v.v... của tác phẩm “Chánh Pháp Nhãn Tạng”.

Thứ năm, căn cứ nguyên bản “Chánh Pháp Nhãn Tạng” của Thiền Sư Đạo Nguyên, cả Tông môn nổ lực sưu tập, chỉnh lý, nghiên cứu học tập, kế thừa tông chỉ, không cho thất lạc.

Thứ sáu, góp nhặt những mẫu chuyện đời của Thiền Sư Như Tịnh, bổn sư của Thiền Sư Đạo NguyênThiền Sư Đạo Nguyên, Thiền Sư Hoài Tráng, Thiền Sư Nghĩa Giới viết thành các tác phẩm như “Tam Đại Tôn Hành Trạng Ký”, “Động Sơn Truyền Đăng Viện Ngũ Lão Ngộ Tắc Tịnh Hành Nghiệp Lược Ký”, trùng tu các mộ tháp chư vị Tổ Sư ở chùa Vĩnh Thừa và Vĩnh Quang. 
Đặc biệt, tại khai sơn đường của chùa Vĩnh Quang, Thiền Sư Oánh Sơn ghi lại sự nghiệp vĩ đại, công hạnh xử trí và việc điều hành giáo đoàn.

Thứ bảy, như trên đã nói, không chỉ đối với Tăng lữ phải hòa hợp mà người tại gia cũng được Ngài khuyên nên vui hòa với nhau. Đa phần tín đồ thuộc tầng lớp nông dân địa phương cho nên phải có sự hòa hợp, hòa kính tin thân nhau. Ngoài ra, Ngài còn soạn thảo nhiều tác phẩm ghi chú, hướng dẫn các chùa viện điều hànhgiải quyết vấn đề ổn thỏa những vấn đề trong chùa, bởi vì nếu không có sự hộ trì của đàn na tín thí, Tăng đoàn khó có thể tu hành trong các tự viện được. Hơn nữa, Ngài cho rằng: “Phải kính tín đồ như Phật”, mà quan điểm nầy, ngay cả Ngài Đạo Nguyên Thiền Sư cũng chưa trọn vẹn.

Thứ tám, tiếp tục duy trì thành phần nữ giới trong các Phật sự, tôn trọng chư Ni như kính trọng Tăng, đặt pháp tự cho Ni và giao cho chức trụ trì nữa, mà phải nói rằng đây là những việc làm mới nhất, ngay cả khi Thiền Sư Đạo Nguyên còn sanh tiền không thực hiện được.

Thứ chín, xây dựng rất nhiều chùa, chăm lo việc đào tạo thế hệ đệ tử. Thiền Sư Đạo Nguyên chỉ xây được hai ngôi chùa, nuôi được ba vị đệ tử. Nhưng Thiền Sư Oánh Sơn tạo ra bảy ngôi chùa và có hơn sáu người đệ tử tiếp tục kế truyền. Sau đó chẳng bao lâu, Thiền Sư Minh Phong (Meiho) đệ tử lớn nhất của Thiền Sư Oánh Sơn phát triển thêm 12 chùa. Đến thời Thiền Sư Nga Sơn (Gasan) cội cây được chiết thành 25 cành, cứ như thế lần lượt các môn hạ phát sanh cho đến thời Thiền Sư Nga Sơn, Chùa Tổng Trì, đệ tử được rải đều khắp toàn quốc. Bây giờ tổng cộng là 15.000 ngôi chùa, trong số đó 70 phần trăm là những tự viện thuộc Tào Động TôngThiền Sư Oánh Sơn và Thiền Sư Nga Sơn là những vị Tổ kế thừa và trực tiếp điều hành. Với sự phát triển rất thiết thực ấy, Thiền Sư Oánh Sơn được tôn kính là vị Tổ trong giáo đoàn.

II.3.4 Cuộc Đời Của Cao Tổ Đạo Nguyên Thiền Sư

II.3.4.1 Sinh Trưởng Tại Kyoto

Thiền Sư Đạo Nguyên, Cao Tổ là người Nhật, sanh ra trong một giai cấp thượng lưu, tại Cửu Ngả Áp (Koganosho), Kyoto giữa thời đại Kamakura, thời đạixã hội chính trị bước sang thời kỳ quá độ, giai cấp quý tộc phải đối đầu với giai cấp Võ Sĩ. Ngài sinh năm thứ 2 Chính Trị - Seiji. Thân phụ là Nội Các Đại Thần, Cửu Ngã Thông Thân (Gamichichika) và thân mẫu là con gái của Nhiếp Chính Quan Bạch Đằng Nguyên Cơ Phòng (Fujiwara Motofusa).

II.3.4.2 Xuất GiaTu Hành

Năm lên ba tuổi, Ngài mồ côi cha và tám tuổi mồ côi mẹ. Trước tình cảnh đau thương như thế, Ngài cảm nhận cuộc đời vô thường, đầy đớn đau. Năm lên 14, năm Kiến Bảo Nguyên Niên, Ngài xin phép Thúc phụ đến Tỷ Duệ Sơn, xuất gia với Tăng Chánh Công Viên (Koen), tọa chủ Tông Thiên Thai, trở thành Tăng Sĩ của Tông Thiên Thai, một Tông Phái dành cho con cái của những nhà quyền quý đương thời, thường hay đến xuất gia học đạo tại các chùa như Tỷ Duệ Sơn, Cao Dã Sơn, chùa ở Nara.

Trong thời gian tu học tại Tỷ Duệ Sơn, Ngài cưu mang hoài nghi rằng nếu từ lúc sanh ra, con người vốn có Tánh Phật song tại sao phải tu hành, bởi vì giáo học của Tông Thiên Thai thuộc giáo lý Đại Thừa Phật Giáo cho rằng ai cũng là Phật, thế thì đã là Phật tại sao phải tu. Thật ra, hoài nghi nầy không phải chỉ riêng Ngài mà dường như là một phong trào ưu tư về lý tưởng thành Phậtpháp môn tu hành để thành Phật. Nói theo ngôn ngữ bây giờ, ưu tư con người là gì? Và tại sao con người phải sống, thọ nhận những sự khổ não như vậy?

Thế nhưng tại Tỷ Duệ Sơn chẳng có ai giải đáp cho Thiền Sư Đạo Nguyên thỏa mãn. Năm 15 tuổi, năm Kiến Bảo thứ 2, Ngài hạ sơn đến tham bái với Tăng Chánh Công Dận (Koin), chùa Tam Tỉnh song cũng không được giải thích thấu đáo. Thời gian Ngài lưu lại chùa Tam Tỉnh, có một sự kiện xảy ra là Tăng đồ của Tỷ Duệ Sơn tranh chấp xảy ra hỏa hoạn thiêu rụi Đường Tháp, Ngài nhận thấy ở với Công Dận Tăng Chánh cũng khó có thể duy trì chánh tín. Ngài Công Dận Tăng Chánh là bạn của Thiền Sư Vinh Tây (Eisai), chùa Kiến Nhân (Kennin) tại Kyoto, mà Thiền Sư Vinh Tây là Tăng của Thông Thiên Thai, người thổi ngọn gió Thiền đến Nhật truyền thừa cho Ngài Xán Tăng, viên tịch năm thứ 3 Kiến Bảo. Năm Kiến Bảo thứ 5, Ngài 18 tuổi, được sự giới thiệu của Thiền Sư Công Dận, Ngài trở thành đệ tử học Thiền Lâm Tế với Hòa Thượng Minh Toàn (Myozen), một trong những vị đệ tử của Ngài Vinh Tây, bởi vì Thiền Sư Đạo Nguyên nghĩ rằng đương thời Thiền là thời kỳ cuối của Phật Giáo, nên chọn Hòa Thượng Minh Toàn học Thiền. Gặp Ngài, Hòa Thượng Minh Toàn biết là một vị Tăng nhiệt tâm cầu đạo, liền hứa khả tận tâm truyền trao áo nghĩa của Thiền, song cho đến năm sau, Ngài vẫn không sao giải tỏa những hoài nghi của mình cho nên lúc 24 tuổi, Năm Trinh Ứng thứ 2, Ngài từ giả Hòa Thượng Minh Toàn lên đường sang Trung Hoa cầu học.

II.3.4.3 Vị Thầy Chính – Như Tịnh Thiền

Văn hóa Nhật phát triển từ Trung Hoa, một trong những nơi được xem là chiếc nôi Phật Giáo. Thời đó, ai ai về chốn Tổ ở Trung Hoa, cũng vì mục đích cầu đạo, tìm con đường Phật pháp chơn chánh. Thế nhưng lúc bấy giờ Thiền môn Trung Hoa, chư Tăng đã sa đọa, có quá nhiều hạng người vô danh tiểu tốt, tiếp tay với quyền hành thế gian, không còn bổn nguyện, còn những bậc đạo cao đức trọng dường như bị nhận chìm vào thế tục. Trước hoàn cảnh như vậy, Thiền Sư Đạo Nguyên ngán ngẫm, nhiều lúc có ý định trở về quê nhà. Tình cờ gặp Thiền Sư Như Tịnh, đời thứ 31 thuộc Thiên Đồng Sơn Cảnh Đức Tự, tại Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang, Ngài liền phát nguyện tinh tấn tu hành một cách mãnh liệt suốt thời gian khá dài cho đến năm Gia Lục nguyên niên, năm Ngài 26 tuổi, chứng đắc “thân tâm thoát lạc”. 

Đối với Thiền Sư Đạo Nguyên, Thiền Sư Như Tịnh là một ân nhân vạch ra con đường giải thoát chân chánh, thật chứng để Ngài Đạo Nguyên đi suốt cuộc đời của mình. Trong lịch sử Phật Giáo Trung Hoa, Thiền Sư Như Tịnh là người không có danh vị, cả đời che thân chỉ một chiếc áo gai, ngồi thiền miên mật, tu hành không thối chuyển. Khi gặp Thiền Sư Như Tịnh lần đầu tiên, Thiền Sư Đạo Nguyên liền nhận ra một Thiền Sư khả kính đầy ấn tượng, nghe trong lòng dâng lên một niềm cảm kích và tự nói rằng “gặp được thánh nhân”. Hơn nữa, qua cuộc đời hành đạo của Thiền Sư Đạo Nguyên, có thể nói rằng danh của Thiền Sư Như Tịnh được lưu truyền cho hậu thế.

II.3.4.4 Thân Tâm Thoát Lạc

“Thân Tâm Thoát Lạc” nghĩa là thân tâm được giải thoát hoàn toàn, bởi vì cởi bỏ tất cả những gì trói buộc và cột chặt từ xưa. Thật ra, ai cũng có thể là con người thân tâm thoát lạc, bởi vì dẫu ở đâu, bất cứ lúc nào, sống cuộc sống an nhiêntự do rồi. Một khi đã rõ biết, Phật cũng chẳng phải có mà phàm phu cũng không, chẳng phải tu hành mới được chứng đắc giải thoát. Mỗi cánh tay cử động, mỗi bước chân đi, mỗi hơi thở trong từng khoảng thời gian ấy, chính là hành trạng của một vị Phật đang sống. Chỉ điều nầy thôi, bất cứ vật gì cũng phải lưu tâm và tất cả đều bắt đầu từ đây và từ đây tiếp nhận vào, ngoài ra hầu như không có việc khác. Tất cả là hư ngôn, là những giả tưởng, cho nên sau khi Thiền Sư Đạo Nguyên về nước, tiếng nói đầu tiên của Ngài là “mắt vẫn nằm ngang ngay trên sống mũi” và “không thủ hoàn hương” (tay không trở lại cố hương). Thật tế, thâm tâm thoát lạc chẳng phải là điều gì đặc biệt giống như mắt bao giờ cũng nằm ngang trên mũi rất tự nhiên ai ai cũng biết, chẳng có gì đặc biệt cả, do vậy nói rằng trở về quê hương bằng hai tay không.

II.3.4.5 Hưng Thánh Tự

Năm lên 28 tuổi là năm An Trinh nguyên niên, Thiền Sư Đạo Nguyên lên bờ tại Kyushu. Trở về cố hương Kyoto với bộ cà sa của người du Tăng, Ngài đến thăm chùa Kiến Nhân trước nhất. Hòa Thượng Minh Toàn đã viên tịch khi Thiền Sư Đạo Nguyên còn ở Trung Hoa. Ngài đến chùa Cực Lạc ở trong một thảo am, sau đó Ngài qua An Dưỡng Viện. Năm 34 tuổi, năm Thiên Phước nguyên niên Ngài bắt đầu xây chùa Hưng Phước, tại đó Ngài xây Tăng Đường trang nghiêm như Tăng Đường ở Trung Hoa. Ngài ở chùa Hưng Phước tổng cộng 10 năm dạy Phật Pháp và Thiền cho trên 2000 người thọ giới. Ngài còn tạo hàng trăm cơ sở khác. Đặc biệt, Ngài biên soạn nhiều tác phẩm như “Phổ Khuyến Tọa Thiền Nghi”; “Biện Đạo Thoại”, “Học Đạo Dụng Tâm Tập”, “Điển Tọa Giáo Huấn”, đặc biệt tác phẩm “Chánh Pháp Nhãn Tạng”.
Với tình thầy trò, Thiền Sư Hoài Tráng, cao đệ của Ngài cũng ghi chép lời thầy giảng lại thành tác phẩm “Chánh Pháp Nhãn Tạng Tùy Văn Ký”, trong thời gian Thiền Sư Đạo Nguyên ở chùa Hưng Thánh vừa tọa thiền, vừa xiển dương Phật pháp giáo hóa rất nhiều người.

Thế nhưng, lập trường của Thiền Sư Đạo Nguyên thuộc tân hưng Phật Giáo (Phật Giáo cải cách) giống như tân hưng Phật Giáo Tịnh Độ Niệm Phật, cho nên Tỷ Duệ Sơn được thành lập trước tiên rồi cả một tăng đoàn tại Kyoto mới được thành lập, sau nầy tất cả đều nhận lãnh sự đàn áp bách hại và chùa Hưng Thánh bị thiêu rụi hoàn toàn.

II.3.4.6 Vĩnh Bình Tự

Năm Ngài 44 tuổi nhằm năm Khoan Nguyên nguyên niên, Ngài rời chùa Hưng Thánh đến Chỉ Tỷ Áp (Binosho) ở Việt Tiền, nơi có những tín đồ tin lục độ Ba La Mật, góp tiền dâng cúng đất ở Việt Tiền để làm việc nghĩa. Địa danh ấy cũng gọi là Việt Châu, giống như tên địa danh mà Thiền Sư Như Tịnh xuất thân. Nghe tin ấy, Ngài cảm động vô cùng. Ở Việt Tiền, Ngài ở những chùa cổ như Kiết Phong Tự, Thiền Sư Phong Tự v.v... và kiến tạo Đại Phật Tự (Daibutsuji). Sau nầy, Đại Phật Tự đã đổi thành Vĩnh Bình Tự vào năm Khoán Nguyên thứ 3, lúc Ngài 46 tuổi.

Thiền Sư Đạo Nguyên ở chùa Vĩnh Bình trước sau là 10 năm, chuyên chú hoàn thành tác phẩm “Chánh Pháp Nhãn Tạng”, đồng thời chế định thanh quy của Tăng Đoàn. Ngài vừa dạy dỗ đệ tử xuất gia vừa giáo hóa cho những đệ tử tại gia tại Kamakura. Thiền Sư Đạo Nguyên xem Chùa Vĩnh Bình như chỗ ẩn cư tránh mọi giao tiếp với bên ngoài, song không phải sống cô độc. Dẫu sao đi nữa, Ngài mở rộng con đường đạo cho nhiều người, mà hầu hết những người kế thừa Ngài đều tu đúng chánh pháp. Phải nói rằng đó chính là kết quả từ nổ lực của Ngài.

II.3.4.7 Thị Tịch Lúc 54 Tuổi

Thế nhưng, thời kỳ vô thường biến hoại của Thiền Sư Đạo Nguyên cũng đến. Thân thể Ngài bị ung nhọt, hành hạ Ngài ác liệt. Vì yêu mến chùa Vĩnh Bình, Ngài không muốn rời xa cho nên Ngài thệ rằng mãi mãi không rời nơi đây, song Ngài phải nhận lời thỉnh cầu của tín đồ về Kinh Đô (Kyoto). Cư sĩ Giác Niệm, đệ tử tại gia với Thiền Sư Hoài Tráng cao đệ và môn đồ hết lòng phụng dưỡng chữa trị song trải qua 20 ngày nghỉ ngơi, Ngài thị tịch ngày 28 tháng 8 âm lịch, nhằm Kiến Trường năm thứ 5 với tuổi đời là 54.

II.3.5 Cuộc Đời Của Thái Tổ Oánh Sơn Thiền Sư

II.3.5.1 Sống ở Việt Tiền

Sau khi Cao Tổ - Thiền Sư Đạo Nguyên viên tịch, Thái Tổ - Thiền Sư Oánh Sơn lưu lại Việt Tiền đến năm Văn Vĩnh thứ 5, sau thời Kamakura tổng cộng 15 năm. Lúc bấy giờ sứ giả Mông Cổ đến Phủ Tể Tướng cấm việc giao thông làm cho chính quyền Bắc Điều Thời Tông kháng cự lại, đất nước đến lúc lâm nạn thật gian nan khổ sở. Thiền Sư Hoài Tráng, trưởng tử của Thiền Sư Đạo Nguyên là đời thứ 2 của Chùa Vĩnh Bình, Thiền Sư Nghĩa Giới, đệ tử Thiền Sư Hoài Tráng là đời thứ 3 của Chùa Vĩnh Bình, Thiền Sư Oánh Sơn là tổ thứ 4 kể từ Thiền Sư Đạo Nguyên.

Có một nhân duyên cảm ứng bất khả tư nghì, Thiền Sư Oánh Sơn sinh tại Đa Nhĩ (Tane), nằm dưới chân chùa Vĩnh Bình. Thân phụ của Ngài là Liễu Nhàn Thượng Tọa (Kyokan Joza) thật, hư không rõ. Thân mẫu Ngài là Hoài Quán Đại Tỷ (Ekan Daishi). Thật ra, việc nầy không rõ ràng lắm. Tuy nhiên một điều chắc chắn rằng Ngài không xuất thân từ giai cấp quý tộc như Thiền Sư Đạo Nguyên. Ngài có nhân duyên rất ít đối với thân phụ, nhưng lại có nhiều với Thiền Sư Đạo Nguyên.

II.3.5.2 Xuất giaTu Hành

Ưu Bà Di Minh Trí (Myochi), bà ngoại của Thiền Sư Oánh Sơn là người mà Thiền Sư Đạo Nguyên gặp đầu tiên lúc từ Trung Hoa về lập Chùa Kiến Nhân, Kyoto. Nói cách khác, bà Ngoại của Ngài rất kính tín Thiền Sư Đạo Nguyên, trước khi Ngài ra đời, phải chăng đây là duyên Phật của Ngài, cũng có thể gọi là túc duyên sẵn có, bởi vì gia đình Ngài rất sùng tín Tam Bảo, bà Ngoại, Ưu Bà Di Minh Trí và mẹ, Hoài Quán Đại Tỉ đều sùng tín Đức Quan Âm. Năm vừa lên 8, nhằm năm Kiến Trị nguyên niên, Ngài theo Ngoại đến chùa gặp Thiền Sư Nghĩa Giới, Tổ thứ 3 của chùa Vĩnh Bình, liền xin xuất gia làm đệ tử Phật. Thiền Sư Nghĩa Giới cũng sanh ra ở Việt Tiền, là người đồng hương của Thiền Sư Oánh Sơn. Từ năm 8 tuổi vào chùa Vĩnh Bình của Ngài Đạo Nguyên cho đến năm 58 tuổi Ngài viên tịch vẫn kiên giữ một phái duy nhất và tắm gội trong dòng pháp của Thiền Sư Đạo Nguyên, cho nên môn hạ của Vĩnh Bình cho rằng Thiền Sư Oánh Sơn thuần huyết thống, nếu không muốn nói là giống như đúc.

II.3.5.3 Ba Vị Tổ Sư: Nghĩa Giới, Hoài Tráng, Tịch Viên

Thiền Sư Nghĩa Giới lúc nào cũng muốn nối kết nhân duyên với Thiền Sư Đạo Nguyên, để được thân cận trong mọi điều kiện có thể. Thiền Sư Hoài Tráng và Thiền Sư Oánh Sơn cũng vậy. Riêng Thiền Sư Hoài Tráng là đệ tử sau cùng vào năm Hoằng An thứ 3. Tuy nhiên, khi Thiền Sư Oánh Sơn mới 13 tuổi mà Thiền Sư Hoài Tráng đã 82 rồi. Lúc Thiền Sư Hoài Tráng viên tịch, Thiền Sư Oánh Sơn xem như không còn lãnh thọ tôn chỉ Thiền Sư Đạo Nguyên trực tiếp nữa, bởi vì Thiền Sư Đạo Nguyên chỉ có 2 người đệ tử đặc biệt mà thôi. Nhờ nối kết được Phật duyên sâu xa như vậy, sau nầy Thiền Sư Oánh Sơn đương nhiên trở thành Tổ Sư, không ai khác hơn được.
Thiền Sư Tịch Viên cũng là đệ tử của Thiền Sư Đạo Nguyên từ lúc Ngài ở Trung Hoa về, kiến lập chùa Bảo Khánh (Hokyo) tại Ono. Lúc đó Ngài Tịch Viên mới có 19 tuổi rời cuộc sống thế gian xuất gia tu hành nghiêm túc, chứng ngộ giải thoát. Ngài Đạo Nguyên viên tịch, nội bộ chùa Vĩnh Bình bất ổn, Thiền Sư Nghĩa GiớiThiền Sư Oánh Sơn tiễn đưa Thiền Sư Tịch Viên quy ẩn.

II.3.5.4 Bình Thường Tâm Thị Đạo

Năm 22 tuổi nhằm vào năm Chánh Ứng thứ 2, Ngài giã từ Thiền Sư Nghĩa Sơn hạ sơn đến cư trú tại chùa Đại ThừaGia Hạ, quyết tâm ngồi thiền đến chứng ngộ. Năm 27 tuổi nhằm vào năm Vĩnh Nhân thứ 2, Ngài học về Thiền Công Án (đề tài) “Bình Thường Tâm Thị Đạo” liền khai ngộ, được Thiền Sư Nghĩa Giới ấn chứng.

“Bình thường tâm thị đạo” là một công án hỏi đáp rất nổi tiếng của hai vị Thiền Tăng đời nhà Đường ở Trung Quốc, đó là Thiền Sư Nam Tuyền Phổ Nguyệnđệ tửThiền Sư Triệu Châu Tòng Niệm. Triệu Châu hỏi rằng: “Cốt tủy của Phật giáo là gì?” Nam Tuyền Thiền Sư đáp: “Tâm bình thường là đạo”.

Tâm bình thường là đạo nghĩatâm bình thường là cốt tủy của Phật đạo vậy. Bình thường tâm chúng ta rất tự tại, không lưu tâm, tâm đó được gọi là tâm bình thường, tâm uyên nguyên, ngay thẳng. Thiền Sư Oánh Sơn đã lãnh hội tâm bình thường, cho nên Thiền Sư Nghĩa Giới ấn chứng là người kế thừa Đại Thừa vậy.

II.3.5.5 Khai Mở Chùa Vĩnh Quang và Chùa Tổng Trì

Năm 28 tuổi nhằm năm Vĩnh Nhân thứ 4, Ngài xây dựng Chùa Thành Mãn (Joman) ở Aba, huyện Tokushima. Có năm người đệ tử thọ giới với Ngài, sau đó có đến 70 người thọ giới. Thời gian ấy, Thiền Sư Nghĩa Giới cũng đã lớn tuổi cần người thị giả, nên Ngài phải về chùa Đại Thừa. Năm 35 tuổi, nhằm năm Càn Nguyên nguyên niên, Ngài trở thành vị trụ trì thứ 2 chùa Đại Thừa, đề xướng “Truyền Quang Lục”, và biên soạn tác phẩm “Tọa Thiền Dụng Tâm Ký”.

Năm 46 tuổi, nhằm năm Chánh Hòa thứ 2, Ngài khai sáng Chùa Vĩnh Quang, tại phố Hakui, thuộc Năng Đăng, soạn tác phẩm “Oánh Sơn Hòa Thượng Thanh Quy” và sao chép “Đổng Cốc Ký”. Hầu như tất cả các tác phẩm chú văn, trí văn đều làm ở đây (ghi chú các câu văn và phối trí lại lời văn). Ngài còn kiến tạo Ngũ Lão Phong, nuôi dưỡng nhiều đệ tử tại đây. Ngoài ra, Ngài còn thành lập nhiều chùa viện ở nơi khác. Sau nầy, Thiền Sư Minh Phong, cao đệ của Ngài, hộ trì và bảo quản Chùa Đại Thừa cũng như những cơ sở khác.

Năm 57 tuổi, nhằm năm Chánh Trung nguyên niên, Ngài khai sáng Chùa Tổng Trì, huyện Ishikawa, quận Phụng Chí (Fugeshi) thuộc Năng Đăng. Chùa Tổng Trì, về sau được Thiền Sư Nga Sơn, Cao Đệ hướng dẫn dần dần nơi đây trở thành chiếc nôi phát triển mạnh mẽ thành giáo đoàn Tông Tào Động, gọi là Đại Bổn Sơn Tông Tào Động, môn phong ấy là gạch nối cho thiên hạ ngồi chung lại với nhau. Phải nói rằng nếu khôngThiền Sư Oánh Sơn đăng trường (nhập cuộc), giáo đoàn Tông Tào Động không thể được như bây giờ.
II.3.5.6 Viên Tịch Tại Chùa Vĩnh Quang

Sinh ra và lớn lên ở miền Bắc và nửa đời hoạt động của Ngài cũng ở miền Bắc, dù phạm vi hoạt động không rộng lắm, nhưng rất thỉ chung. Sau nầy, Tông phái phát triển và mở rộng vượt qua ranh giới, khai sơn phá thạch đến các địa bàn khác và lan truyền ra toàn cõi Nhật Bản.

Vào ngày 15 tháng 8 âm lịch, năm Trung Chánh thứ hai , sau khi giao lại trách nhiệm cho Thiền Sư Nga Sơn tại chùa Tổng Trì, Thiền Sư Oánh Sơn trở về Chùa Vĩnh Quang, ngôi chùa trở thành nơi an nghỉ ngàn thu của Thiền Sư Oánh Sơn cũng như lưu giữ tro cốt của Ngài.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31298)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10449)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11139)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12621)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10731)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16467)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10736)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22764)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 11907)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11409)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10584)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12251)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11096)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 9936)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10235)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11792)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10610)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12254)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9704)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11177)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13748)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9504)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12522)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9602)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10336)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10433)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10207)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9798)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 10980)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 11933)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10075)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10696)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9460)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9815)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8694)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9417)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14435)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8703)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12446)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10328)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 8974)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10472)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9235)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8704)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10417)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9067)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8286)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 11921)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9629)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10144)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10164)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 18967)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9332)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8912)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9491)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 8929)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14656)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10019)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8269)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8817)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8881)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8662)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9254)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14449)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 8955)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8663)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 8963)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10434)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8544)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9909)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24143)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10078)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 10946)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8910)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9382)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7938)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9175)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15233)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10247)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9475)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17276)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21208)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12064)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10154)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19086)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 25830)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7902)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14659)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10552)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11258)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9426)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18482)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12257)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11792)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10607)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13243)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9897)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9192)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9297)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15719)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant