Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

1. Tổ Tích Của Cao Tổ Đạo Nguyên Thiền Sư

11 Tháng Tư 201100:00(Xem: 13209)
1. Tổ Tích Của Cao Tổ Đạo Nguyên Thiền Sư

THIỀN TÀO ĐỘNG NHẬT BẢN
Nguyên tác: Azuma Ryushin (Đông Long Chơn) - Việt dịch: Thích Như Điển
Chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc và quý Phật Tử tại Mỹ Châu – Úc Châu ấn tống 2008

Chương năm: 
Di Tích Của Lưỡng Tổ Đại Sư 

VI. Di Tích Của Lưỡng Tổ Đại Sư

VI.1 Tổ Tích Của Cao Tổ Đạo Nguyên Thiền Sư 

VI.1.1 Nơi Xuất Sanh

Diệu Giác Sơn Đản Sanh Tự ở Kyotofu Kyotoshi Fukenku Kogahoncho.
Nơi đây, Thiền Sư Đạo Nguyên được sanh ra, dấu tích còn lại là một căn phòng của gia đình Cữu Ngã – Koga. Thời Đại Chánh – Taisho, vì sự ảnh hưởng to lớn của Thiền Sư Đạo Nguyên, Thiền Sư Nhật Trí Mặc Tiên (Hioki Mokusen) đời thứ 66, Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự phát nguyện tái thiết thành một ngôi chùa tưởng niệm nơi Cao Tổ sinh ra. Tại Bổn Đường thờ tượng của Thiền Sư Đạo Nguyên, do Ngài tự khắc di chuyển từ chùa Diệu Giác, huyện Fukui về an trí nơi đây. (Trước khi đến Việt Tiền, Thiền Sư Đạo Nguyên đã ở đây cả một năm, theo sự truyền lại của chùa Chơn Ngôn Tông).

VI.1.2 Trải Qua Thời Kỳ Ấu Niên

Sơn Trang Mộc Phan – Kohatasansoo, nằm ở Kyotofu Uji Higashiujicho Jikohata là di tích biệt trang của Đằng Nguyên Cơ Phòng. Bây giờ trở thành Tài Đoàn Pháp Nhơn thuộc sơn trang Tùng Điện – Shoodensansoo, hiệu của Cơ Phòng là Tùng Điện, vì Y Tử, con gái Cơ Phòng là mẹ của Thiền Sư Đạo Nguyên. Có thuyết cho rằng Thiền Sư Đạo Nguyên sinh ra trên mãnh đất nầy.

VI.1.3 Phát Tâm Tại Thần Hộ Tự - Jingooji

Thần Hộ Tự - Jingooji, tại Kyotofu Kyotoshi Migikyoku Umenshata Jakaocho là ngôi chùa thuộc phái Cổ Nghĩa Chơn Ngôn Tông, biệt cách Bổn Sơn, do Hòa Khí Thanh Sàng Cung khai sáng. Hồng Pháp Đại Sư Không Hải, Truyền Giáo Đại Sư Tối Trừng, Vân Giác Thượng Nhơn là những vị đã Trụ Trì nơi đây. Mẹ của Ngài Đạo Nguyên Thiền Sư mất lúc Ngài lên 8. Tang lễ mẹ Ngài có lẽ được cử hành những Phật sự cúng dường tại chùa nầy. Tương truyền rằng Ngài đến tự viện nầy, thấy khói hương bay lên, cảm nhận được cuộc đời vô thường nên quyết chí xuất gia.

VI.1.4 Những Chùa Đã Tu Hành Tại Nhật Bản

VI.1.4.1 Thiên Quang Phòng – Senkoboo, của Cốc Bát Nhã – Hannyatani, tại Huyện Tư Hạ, phố Đại Tân, Phản Bổn Dinh.

Bát Nhã Cốc thuộc Tông Thiên Thai, Tỷ Duệ Sơn, Hoành Xuyên – Yogawa. 
Mùa Xuân năm 13 tuổi, Thiền Sư Đạo Nguyên gặp Thúc Phụ Lương Hiển, một vị Cao Tăng thuộc Tông Thiên Thai xin phép xuất gia. Ngài Lương Hiển gửi Thiền Sư Đạo Nguyên đến Thiên Quang Phòng Bát Nhã Cốc nầy ở đến ngày 9 tháng 4 năm 14 tuổi mới được Tăng Chánh Công Viên, Tọa Chủ đời thứ 70 Tông Thiên Thai thế phát trở thành Tăng sĩ Tông Thiên Thai.

Về sau Ngài dựng bia cho Thừa Dương Đại Sư Đắc Độ Linh Tích và xây Tháp cho Thừa Dương Đại Sư tại Giải Thoát Cốc ở Hoành Xuyên 

VI.1.4.2 Tại chùa Tam Tỉnh – Miidera, thuộc Huyện Tư Hạ, phố Đại Tân, Biệt Sở, Viên Thành Tự Dinh.

Chùa nầy là Tổng Bổn Sơn Thiên Thai Tự Mông, gọi là Tây Quốc Quán Âm Linh Trường Đệ Thập Tứ Phiên Lễ Sở cũng gọi là Viên Thành Tự - Onjooji, do Đại Hữu Tả Đa Vương khai sáng. Vì muốn giải thoát khổ đau, Thiền Sư Đạo Nguyên xuất gia cạo tóc tại Tỷ Duệ Sơn năm lên 15 tuổi, khi thăm Ngài Công Dận Tăng Chánh – Koin, tại chùa Tam Tỉnh, được Ngài Công Dận Tăng Chánh khuyến khích sang Trung Hoa du học.

VI.1.4.3 Kiến Nhơn Tự - Kenninji, tại Kyotofu Kyotoshi Higashiyamaku Komatsucho.

Đại Bổn Sơn của phái Kiến Nhơn Tự thuộc Tông Lâm Tế, do Tướng Quân Nguyên Thắng, Kamakura Bakkufu đời thứ hai, dựng chùa nầy cúng cho Thiền Sư Dinh Tây. Đây là chùa Thiền đầu tiên tại Nhật Bản, một trong 5 núi tại Kyoto. Thiền Sư Đạo Nguyên rời Tông Thiên Thai đến chùa nầy tu học 4 năm, do Hòa Thượng Minh Toàn – Myoozen, Cao Đệ của Thiền Sư Dinh Tây hướng dẫn học theo Tông Lâm Tế.
Vào mùa Thu lúc 28 tuổi, Thiền Sư Đạo Nguyên ở Trung Hoa được 4 năm trở về. Đầu tiên cởi bỏ hành trình của chuyến lữ hành ở chùa nầy và sống tại đây hai ba năm.

VI.1.4.4 Địa Điểm Đi Vào Nước Tống, Bãi Biển Bác Đa – Hakata, Thuộc Huyện Fukuoka Fukuokashi

Năm 24 tuổi, Thiền Sư Đạo Nguyên theo hầu Hòa Thượng Minh Toàn, cùng với một số bạn đồng hành hương Trung Hoa, bãi biễn nầy là địa điểm thuyền xuất phát, song có thuyết cho rằng Hakatawan, thuộc bãi Tham Giang.

VI.1.5 Tu Hành Tại Những Chùa Ở Trung Quốc

VI.1.5.1 Danh Sơn Thiên Đồng Cảnh Đức Thiền Tự - Taihaku Meizan Tendoo Keitoku Zenji

Đây là Thiên Đồng Tự, tỉnh Chiết Giang, Trung Hoa, địa khu Ninh Ba, huyện Cần Tiểu Bạch Trấn. Chùa do Nghĩa Hưng thành lập vào đời Tây Phổ, thời Vĩnh Hưng , một trong năm sơn môn của Thiền Tông. Sau khi lên bờ, Thiền Sư Đạo Nguyên đến Tự Viện nầy trước tiên. Năm 26 tuổi, Ngài là học trò của Thiền Sư Như Tịnh đời thứ 31, đã được đại ngộ “Thân Tâm Thoát Lạc” có trở lại chùa nầy thăm. Sau nầy, Thiền Sư Đạo Nguyên kiến tạo chùa Vĩnh Bình mô phỏng theo chùa Cảnh Đức nầy. Thật tế, Thiền Sư Đạo Nguyên chọn chùa Cảnh Đức nơi gốc gác căn bản chánh truyền Phật Pháp. Thiền Sư Như Tịnh là linh hồn ở chốn nầy. Trong vườn chùa, có dựng bia đề là: “Đạo Nguyên Thiền Sư Đắc Pháp Linh Tích Bi”.

VI.1.5.2 A Dục Vương Sơn Lưu Phong Quảng Lợi Tự - Aikuoozan Ryuhoo Koriji

Chùa A Dục Sơn Lưu Phong Quảng là một ngôi chùa xưa, được xem là một trong năm sơn môn của Thiền Tông, thuộc Ngũ Lang Trấn, tỉnh Chiết Giang, Trung Hoa, địa khu Ninh Ba, được xây dựng vào năm Nghĩa Hy nguyên niên , do sắc lệnh của An Đế thuộc Đông Phổ. Mùa Thu năm lên 24 tuổi, Thiền Sư Đạo Nguyên đến thăm chùa nầy thấy bức họa biến tướng của Lục Tổ Huệ Năng, Tổ thứ 33. Mùa Hạ năm 26 tuổi, Ngài tham vấn Thiền Sư Thành Quế tham vấn tại đây. 

VI.1.5.3 Kính Sơn Hưng Thánh Vạn Thọ Tự - Kinzan Kooshoo Manjuuji
Kính Sơn Hưng Thánh Vạn Thọ Tự thuộc tỉnh Chiết Giang Trung Quốc, thuộc Hàng Châu, huyện Lâm An.
Đầu năm Thiên Bảo, nhà Đường Thiền Sư Đạo Khâm khai sáng ngôi chùa lớn nầy, được xem là một trong 5 núi của Thiền Tông. Thiền Sư Đạo Nguyên có đến chùa nầy vào mùa Xuân năm 26 tuổi để tham vấn Thiền Sư Chiết Ông Như Đạm .

VI.1.5.4 Thiên Thai Sơn Bình Điền Vạn Niên Tự - Tendaizan Heiden Manenji
Thiên Thai Sơn Bình Điền Vạn Niên Tự thuộc tỉnh Chiết Giang Trung Quốc, thuộc Đài Châu, huyện Thiên Thai.
Thiền Sư Trí Chung khai sơn chùa Vạn Niên vào năm thứ 7 Thái Kiến đời Trần tạo Đạo Tràng trung tâm của Tông Thiên Thai Trung Hoa, một tự viện trong núi Thiên Thai. Năm 26 tuổi, Thiền Sư Đạo Nguyên đến chùa nầy, được Thiền Sư Nguyên Minh – Kenshi, mến mộ cho xem tự thơ (sách truyền thừa).

VI.1.5.5 Tiểu Thúy Nham - Shoosuigan

Tiểu Thúy Nham thuộc huyện Lâm Hải, tỉnh Chiết Giang, Trung Hoa. Năm 26 tuổi, Thiền Sư Đạo Nguyên được Thiền Sư Bàn Sơn Tư Trác giáo huấn tại đây.

VI.1.5.6 Đại Mai Sơn Hộ Thánh Tự - Daibaisan Goshooji
Chùa nầy ở tại huyện Cẩn, địa khu Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang Trung Hoa, do Thiền Sư Đại Mai Pháp Thường đời Đường xây dựng vào năm Khai Thành nguyên niên . Năm 26 tuổi, Thiền Sư Đạo Nguyên nghỉ tại chùa nầy một đêm, nằm mộng thấy Thiền Sư Đại Mai Pháp Thường cho một cành hoa mai.

VI.1.5.7 Phổ Đà Sơn – Fudazan
Phổ Đà Sơn nằm tại huyện Định Hải, Phổ Đà, địa khu Chu Sơn, tỉnh Chiết Giang Trung Hoa, là một hòn đảo trong nhiều đảo của phía Đông Trung Hoa gọi là Chu Sơn. Có ngôi chùa tên là Bổ Đà La Già Sơn Tự còn gọi là Chùa Phổ Tế do Thiền Sư Huệ Ngạc, – Egaku, một vị Tăng người Nhật xây vào đời nhà Đường năm Đại Trung thứ 12 xây dựng, để thờ Bồ Tát Quan Âm. Năm 27 tuổi, Thiền Sư Đạo Nguyên đến thăm chùa nầy.

VI.1.6 Địa Điểm Ngày Trở Về
Địa điểm ngày trở về của Thiền Sư Đạo Nguyên là sông Mạch Hậu Hà (Higokawa), Khào (Jiri) , huyện Kumamoto, quận Hạ Ích Thành, phố Phú Hợp, đảo Sam.

Năm 28 tuổi, Thiền Sư Đạo Nguyên đến bờ sông Khào để trở về nước. Tương truyền rằng lúc về, thuyền gặp mưa nhiều, gió lớn nên bị lạc hướng. Thiền Sư Đạo Nguyên vẫn ngồi ngay ngắn tọa thiền, tự nhiên Bồ Tát Quan Âm hiện ra đứng trên hoa sen, gió mưa hết hẳn. Để cảm niệm ân đức Bồ Tát, Thiền Sư Đạo Nguyên khắc tượng Bồ Tát Quan Âm trên ván thuyền làm lễ khai quang điểm nhãn cúng dường. Do vậy, đảo Sam nầy được đặt tên là bãi Khai Nhãn ở trên một chiếc thuyền. Vì lý do đó, có một tôn tượng Bồ Tát Quan Thế Âm đứng trên lá là Bổn Tôn thờ tại chùa Quan Âm ở Nam Minh Sơn do Tông Chơn Ngôn lập. Trong chùa còn có chiếc thuyền bằng gỗ có khắc tượng Quan Âm trên ván thuyền. Trong khuôn viên chùa Quan Âm còn có tấm bia ghi là “Đạo Nguyên Thiền Sư Quy Triều Thượng Lục Linh Địa”.

Có một thuyết khác cho rằng địa điểm mà lên bờ khi trở về của Ngài là bãi Thầy Tu, tại Hakatawan, phủ Đại Tể, huyện Kagoshima, Gia Tân Xá – Nagasahi, tuy nhiên chưa xác định rõ được. Từ xưa đến nay, có thuyết cho rằng về lại sông Khào – Jiri, được nhiều người biết hơn hết. Còn có nhiều truyền thuyết khác còn lưu lại tại địa phương Kyushu – Cửu Châu, về Thiền Sư Đạo Nguyên, ngày nay vẫn còn một ít. Có một thôn nhỏ tên là Itoshimagun, Nhị Trượng Đinh, thuộc huyện Fukuoka, bên cạnh thôn ấy, còn di tích nơi Thiền Sư Đạo Nguyên sanh ra thuộc gia đình Cửu Ngã – Koga, nơi cư ngụdi tích về mồ mã nữa. Ở đây, còn có một gia đình đổi tên là Cửu Ngã Long Đảm – Koga Rindo, giữ một cái thước nước mà ngày xưa Thiền Sư Đạo Nguyên sử dụng. Cũng lập một Địa Tạng Đường liên hệ với Thiền Sư Đạo Nguyên, ở làng Thủy Quyển, quận Viễn Hạ, tương truyền có cái mõ gỗ do Thiền Sư Đạo Nguyên tự làm vẫn còn tại chùa Minh Quang, phố Fukuoka. Đa phần tương truyền dân gian tại phố Fukuoka cho rằng Thiền Sư Đạo Nguyên quảy bút từ chùa Thiên Đồng Sơn Cảnh Đức Tự về đây, hiện nay vẫn còn thơ tích tại nhà An Điền Gia Cửu Thị, ở quận Gia Tuệ, phố Khủng Tuệ. Ngoài ra, còn có chỗ thờ Thiền Sư Đạo Nguyên tại huyện Nagasaki thuộc Gia Tan Tá. Cũng có những địa danh lưu lại cho đến ngày nay như Đạo Nguyên Thủy Cơ, Đạo Nguyên Hạ Cơ.

VI.1.7 Sau Khi Về Nước Ở Tạm Các Chùa

VI.1.7.1 Kiến Nhơn Tự - Kenninji

Kiến Nhơn Tự nằm tại Kyotofu, Kyotoshi, Higashiyamaku Komatsucho, như trước đã giới thiệu, Thiền Sư Đạo Nguyên tạm trú dừng chân và tu tập tại đây từ năm 28 tuổi đến năm 31 tuổi, song mục đích chính là tìm nơi để kiến thiết Đạo Tràng tu Thiền. Ngài cũng đi thăm viếng tất cả 10 nơi thích hợp, một trong những nơi đó là Long Vân Tự ở Kyotofu, quận Chuế Hỉ, Vũ Trị Sơn Điều Đinh, do Thiền Sư Đạo Nguyên khai sơn. Lúc ấy, Ưu Bà Di Minh Trí, bà của Ngài thường đến tham thiền.

VI.1.7.2 An Dưỡng Viện – Anyooin
An Dưỡng Viện nằm tại Kyotofu, Kyotoshi, khu Phục Kiên, Tây Điều Ốc Dinh nơi mà Thiến Sư Đạo Nguyên an cư lúc 31 tuổi, bây giờ trở thành một ngôi chùa tên là Thanh Lương Sơn Hân Tịnh Tự - Gonjooji. Ở đây có dựng một tấm bia khắc những lời thơ của Thiền Sư Đạo Nguyên, gọi là “Thâm Thảo Nhàn Cư Dạ Vũ Thinh”, nghĩa là trong am thanh nghe tiếng mưa đêm.

VI.1.7.3 Hưng Thánh Tự - Kooshooji
Hưng Thánh Tự hiện ở Kyotofu, phố Vũ Trị, Vũ Trị Sơn Điền, là ngôi chùa đầu tiên có Đạo Tràng, được xây dựng từ thời Edo – Giang Hộ, thời Khánh An được Sơn Thành Quốc Định Thành Chủ Vĩnh Tỉnh Thượng Chánh kiến tạo, sau đó Thiền Sư Vạn An Anh Chủng trùng tu.
Mùa Xuân năm 34 tuổi, Thiền Sư Đạo Nguyên xây dựng một Đạo Tràng ngồi thiền đúng cách đầu tiên ở Nhật, tại Sơn Thành Thâm Thảo thuộc Kyotofu, Kyotoshi, Phục Kiến Khu, Thâm Thảo Bảo Ngọc Tự Sơn Dinh. Chùa Thâm Thảo Sơn Bảo Tháp Tự của Tông Nhật Liên đổi thành Hưng Thánh Tự. Thật ra, Chùa Hưng Thánh ở Thâm Thảo đã bị hư hại phế bỏ, mới xây dựng lại. Bây giờ là chùa Hưng Thánh ở Vũ Trị, không thể sai được.
Cũng có một ngôi chùa tên Hưng Thánh tại thôn Hủ Mộc, huyện Tư Hạ, quận Cao Đảo do Thiền Sư Đạo Nguyên Thiền Sư khai sáng, sau đó Ngài được Thiên Hoàng Sai Nga ban cho một tượng Thích Ca Như Lai an trí tại đây (bây giờ trở thành tài sản văn hóa quốc gia). 
Di cốt của Thiền Sư Đạo Nguyên hiện đang phụng thờ tại tháp khai sơn chùa Hưng Thánh, Vũ Trị. Tại Khai Sơn Đường, có tôn tượng Thiền Sư Đạo Nguyên bằng gỗ thờ ở đó. Chùa Bảo Khánh là một trong bốn chùa chính của Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự, ở huyện Fukui. Chùa Đại Từ ở huyện Kumamoto. Chùa Đại Thừa ở huyện Ishikawa và Chùa Hưng Thánh ở Kyotofu. Thiền Sư Đạo Nguyên có tâm với chùa Hưng Thánh đã sống ở đây 10 năm để hoằng dương giáo lý Phật Đà.

VI.1.7.4 Di Tích Nơi Thuyết Pháp
Những nơi Ngài thuyết pháp đó là: Ba Đa Dã Nghĩa Trọng, Chùa Lục Ba La Mật, thuộc Kyotofu, Kyotoshi, Sơn Khu Lộc Lô Dinh và những nơi khác. Tháng 12, năm 42 tuổi, Thiền Sư Đạo Nguyên thuyết giảng Chánh Pháp Nhãn Tạng cho Thứ Sử Vân Châu tại Ba Đa Dã Nghĩa Trọng. Ngoài ra, lúc ở tại chùa Hưng Thánh, Ngài cũng đã thuyết giảng rất nhiều cho cư sĩ Phật Tử tại gia. Ngài cũng giảng tại Chùa Lục Ba La Mật, ngôi chùa danh tiếng của Tân Nghĩa Chơn Ngôn Tông thuộc phái Trí Sơn và Tây Quốc Quan Âm Linh Trường Đệ Thập Thất Phiên Lễ Sở, nơi Ngài Không Giả Thượng Nhơn khai sáng.

VI.1.7.5 Các Chùa Tại Việt Tiền

VI.1.7.5.1 Kiết Phong Tự - Hippooji, tại huyện Fukui, Yoshidagun, Thượng Chí Tử Thôn, Tự Kiết Phong.
Cuối tháng 7 năm 44 tuổi, Thiền Sư Đạo Nguyên đang hành đạo tại Ba Đa Dã Nghĩa Trọng nhận lời mời của ở Việt Tiền, Ngài quang lâm đến đó, trước tiên ở tạm tại chùa Kiết Phong. Lúc bấy giờ Chùa vừa được phục hưng vào thời Minh Trị. Tương truyền rằng tại đây còn sót lại di tích phiến đá Tọa Thiền của Thiền Sư Đạo Nguyên.

VI.1.7.5.2 Thiền Sư Phong Tự - Zenjibuji
Thiền Phong Tự ở tại huyện Fukui Onoshi, Nishidaigetsucho. Giữa năm 43 đến 44 tuổi, Thiền Sư Đạo Nguyên vừa tới lui Chùa Kiết Phong vừa ở tại Chùa Thiền Sư Phong, vì chùa nầy của các đệ tử. Chùa được trùng tu vào thời kỳ Minh Trị.

VI.1.7.6 Các Đạo Tràng Căn Bản
VI.1.7.6.1 Vĩnh Bình Tự - Eiheiji

Chùa Vĩnh Bình ở tại huyện Fukui, Yoshidagun, Ehijicho, Chí Tỉ. Lúc ở Ba Đa Dã Nghĩa Trọng, Thiền Sư Đạo Nguyên nhận được sự giúp đỡ rất nhiều của Tín Đồ vùng nầy cho nên vào tháng 7, năm 45 tuổi Ngài khai sơn Đại Phật Tự về sau đổi thành Chùa Vĩnh Bình vào tháng 6 năm Ngài 47 tuổi. Thiền Sư Đạo Nguyên ở chùa nầy rất lâu khoảng 10 năm, để chăm sóc nuôi dưỡng một số đệ tử, dạy dỗ tín đồ và viết lách, cũng như chỉnh đốn lại quy củ của Già Lam. Phải nói đây là Thánh địa thiêng liêng để lại nhiều di tích lịch sử thời gian 750 năm của một Đại Bổn Sơn cho đến ngày nay.

VI.1.7.6.2 Ba Trước Tự - Namitsukidera
Chùa tọa lạc tại huyện Fukui, Fukuishi, Thành Nguyện Tự Đinh do đệ tử Thiền Sư Đạo Nguyên đó là: Hoài Tráng Thiền Sư (Đệ Nhị Tổ chùa Vĩnh Bình) và Nghĩa Giới Thiền Sư (Đệ Tam Tổ chùa Vĩnh Bình và khai sơn chùa Đại Thừa) khai sáng thuộc Tông Đạt Ma. Vĩnh Bình Tự là quê hương, là nơi Thiền Sư Nghĩa Giới sinh ra, mà dấu tích cho đến bây giờ vẫn còn. Thỉnh thoảng Thiền Sư Đạo Nguyên lui tới Kyoto trú tại chùa Vĩnh Bình, chắc chắn không sai là lúc ấy Chùa đã xây dựng xong.
Còn có Chùa Vĩnh Bình Sơn Chơn Giác Tự tọa lạc Tân Đako, Thượng Trung Đinh, huyện Fukui, quận Viễn Phu thuộc Tịnh Độ Chơn Tông là ngôi chùa mà Thiền Sư Đạo Nguyên nghỉ ngơi. Sơn hiệu Vĩnh Bình Sơn là do Thiền Sưu Đạo Nguyên đặt. Có thuyết cho rằng khi Thiền Sư Đạo Nguyên từ miền Bắc đi xuống đến đây, ở lại một đêm tại nhà của Binh Điền – Hiyota, Tam Phương Dinh Nam Ốc, huyện Fukui, quận Tam Phương.

VI.1.7.7 Thuyết Pháp Các Nơi Thời Kamakura
Bạch Y Xá – Byakuesha ở Danh Việt – Nagooe thuộc huyện Kangawa, Kamakurashi, Omachi.
Tháng 8, năm 48 tuổi, Thiền Sư Đạo Nguyên được Bắc Điều Thời Lại mời đến đây và ở lại gần nửa năm để thuyết pháp cho các Đàn Tín Đồ. Tháng 3 năm 49 tuổi, Ngài mới trở về chùa Vĩnh Bình, tuy nhiên, không còn những tư liệu để xác nhận những dấu tích ấy, bởi vì chẳng còn sót lại gì cả.

VI.1.7.8 Dấu Tích Nơi Chia Tay Với Nghĩa Giới Thiền Sư
Lữ Túc (quán trọ) ở Hiếp Bổn – Wakimoto, tại phố Nam Điền, quận Nam Điền, huyện Fukui. Đêm ngày 5 tháng 8 năm 54 tuổi, Thiền Sư Đạo Nguyên bị bệnh, phải đưa về Kyoto để điều trị, nên rời chùa Vĩnh Bình. Trên đường đi, Ngài ở lại đây một đêm, sáng ngày 6 là phiên trực của mình, Thiền Sư Nghĩa Giới nghe được lời dạy sau cùng của Thầy. Tại đây có dựng một tấm bia ghi rằng: “Ngự Cựu Tích Do Lai”, nghĩa là dấu xưa còn đến nơi đây.

VI.1.7.9 Việt Tiền Là Nơi Sau Cùng
Cầu gỗ Nha Hiệp – Kinome, huyện Fukui, quận Nam Điều, Kim Áp Dinh. Sáng ngày 6 tháng 8 năm 54 tuổi, Thiền Sư Đạo Nguyên được nhiều người hầu theo theo về Kinh Đô – Kyoto cuối cùng đến Việt Tiền, ở độ cao 628 mét, ranh giới giữa Việt Tiền và Nhược Hiệp. Ngày nay, gần đến trạm xe lửa Kim Áp, có bia ghi rằng: “Tào Động Tông Khai Tổ Đạo Nguyên Thiền Sư Mộc – Nha Kỳ Ngự Linh Tích Tham Bái Dịch. Từ đây cách 2 lý”.

VI.1.7.10 Dấu Tích Nơi Nhập Diệt
Tư gia của đệ tử tại gia tên Giác Niệm – Kakunen thuộc Kyotofu, Kyotoshi, khu Hạ Kinh, Cao Tuẩn Thông Dầu, Tiểu Lộ Đông Nhập, Vĩnh Bình Tự Dinh 24.
Thiền Sư Đạo Nguyên ở tại tư gia tín đồ Giác Niệm trong vòng 20 ngày để chữa bệnh. Đến ngày 28 tháng 8 năm Kiến Trường thứ 5 Ngài viên tịch lúc 54 tuổi, vì bệnh mụt nhọt. Tại đây bây giờ có một tấm bia ghi rằng: “Đạo Nguyên Thiền Sư Thị Tịch Thánh Địa”.

VI.1.7.11 Tháp Trà Tỳ - Dabitoo
Nơi Trà Tỳ thuộc Kyotofu, Kyotoshi, Higashiyamaku, Maruyama Kooen, Thứu Vĩ Dinh trà tỳ di cốt Thiền Sư Đạo Nguyên, tại Tây Hành Cốc – Saigyooan, công viên Maruyama, nằm phía sau Ba Tiêu Đường. Hài cốt an trí trong Tháp Ngũ Luân, dựng tấm bia ghi rằng: “Tào Động Tông Cao Tổ Đạo Nguyên Thiền Sư Trà Tỳ Ngự Di Tích Chi Tháp”. Nơi đây lúc nào cũng đầy ắp hương hoa.

VI.1.8 Các Nơi Liên Hệ Về Linh Cốt Của Thiền Sư Đạo Nguyên
o Hưng Thánh Tựan trí linh cốt của Ngài, thuộc Kyotofu, Vũ Trì Thị, Vũ Trị Sơn Điền.
o Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tựan trí linh cốt của Ngài, thuộc huyện Fukui, Kiết Điền quận, Vĩnh Bình Tự Dinh, Chí Tỷ.
o Vĩnh Quang Tự (có truyền thuyết cho rằng có an trí cốt tại Ngũ Lão Phong thuộc Khai Sơn Đường) thuộc huyện Ishigawa, Vũ Trách Thị, Tửu Tỉnh Dinh.
o Đại Thừa Tựan trí linh cốt của Ngài tại huyện Ishikawa, Kim Trạch Thị, Trường Phản Dinh.
o Chánh Pháp Tựan trí linh cốt của Ngài tại huyện Iwanate, Thủy Trạch Thị, Hắc Thạch Dinh.
o Pháp Quy Tự có an trí linh cốt của Ngài tại huyện Aomori, Tam Hộ quận, Danh Xuyên Dinh.
o Khả Miên Trai – Kasuisai, có an trí linh cốt của Ngài tại Sizuokaken, Bố Tỉnh Thị, Cửu Năng.

III.2 Thất Đường Già Lam

III.2.1 Sự Thay Đổi Kiến Trúc Của Tự Viện

Già Lam, nguyên ngữ bằng tiếng Sanscrit cổ, Ấn Độ là Shangarama, còn gọi là Tinh Xá, Chùa, Tự Viện. Kiến trúc Tự Viện Nhật Bản ảnh hưởng trực tiếp từ bán đảo Triều Tiên, gián tiếp từ Trung Hoa. Từ thời Bình An (Heian), mỹ thuật kiến trúc Nhật Bản mô phỏng theo hai dạng mỹ thuật kiến trúc Triều Tiên có từ thời Phi Điểu, và mỹ thuật Trung Hoa từ thời nhà Đường. Đến thời Kamakura, lối kiến trúc đó bị loại bỏ đi thay bằng lối kiến trúc thời Tống (Trung Hoa) hòa với lối kiến trúc thời Thất Đinh. Đến thời Đào Sơn mỹ thuật kiến trúc trở nên đẹp vô cùng, tạo nên phong cách mỹ thuật đặc biệt của thời đại nầy. Còn thời đại Giang Hộ (Edo), lại theo phong cách đơn giản, hiện đạiđộc lập, theo lối phong cách Âu Châu.

Kiến trúc Chùa, đặc biệt vào thời Kamakura thể hiện trọn vẹn phong cách Thiền ảnh hưởng mô thức Trung Hoa thời Đường, còn gọi là phong cách Thiền Tông, có nhiều điểm giống Lâm Tế Tông, Hoàng Bích Tông, Tào Động Tông, hẳn nhiên cũng không thiếu nhiều điểm khác biệt đặc thù.

III.2.2 Già Lam Của Tào Động Tông Là Nơi Chính Để Tu Hành

Thiền Sư Đạo Nguyên phối hợp những phiên bản Tự Viện Trung QuốcẤn Độ, suy nghĩ kiến tạo đạo tràng trang nghiêm của Tông Tào Động. Chùa Vĩnh Bình kiến tạo mô phỏng theo Chùa Thiên Đồng Sơn Cảnh Đức ở tỉnh Chiết Giang, Trung Hoa (bây giờ gọi là Thiên Đồng Tự). Tông Tào Động vẫn sử dụng từ “Thất Đường Già Lam“ có lẽ từ thời Giang Hộ (Edo), không có căn cứ nào chỉ cho nguyên thỉ của chữ nầy. Song cũng có thuyết cho rằng Tông Tào Động gọi là Thất Đường Già Lam cho những ngôi Chùa đầy đủ 7 gian như: Sơn Môn, Phật Điện, Pháp Đường, Khố Viện, Tăng Đường, Dục Thất và Đông Ty. Ngoài ra, Chùa còn có tháp 3 tầng, tháp 5 tầng hay Đa Bảo Tháp, Xá Lợi Tháp v.v... những tháp nầy không gồm chung trong Thất Đường Già Lam. Chùa Thiền hay đặc biệt là Chùa của Tào Động Tông không có Tháp, nếu có, tháp được xây sau hoặc là xây với lý do nào đó, còn Chùa thuộc Tông Pháp Tướng và Tông Chơn Ngôn có xây tháp. 

Hình thức Thất Đường Già Lam của Tông Tào Động theo thứ tự từ bên ngoài đi vào là: Sơn Môn, Phật Điện, Pháp Đường, bên mặt là Khố Viện, trước có Dục Thất (phòng tắm rửa), bên trái là Tăng Đường, trước có Đông Ty (nhà vệ sinh). Tất cả đều có hành lang bao bọc xung quanh trở thành một hình vuông vức. Ngoài Thất Đường còn có những tòa nhà liên quan được xây dựng thêm. Càng về sau, ở những ngôi chùa nhỏ Thất Đường đơn giản chỉ còn Bổn Đường (Chánh Điện), Khố Lý (nhà kho), Khai Sơn Đường (Chỗ Thờ Tổ), Vị Bia Đường (nơi thờ vong). Cũng có nhiều hình thức biến dạng khác như thêm lầu chuông hay cổng tam quan, song chỉ là những trường hợp riêng biệt mà thôi. Nói chung các chùa đều giống nhau như thế, bởi trước nhất phải hợp với khả năng cho nên phải đơn giản, sẽ giải thích rõ về Thất Đường Già Lam dưới đây.

III.2.3 Sơ Lược Về Thất Đường Già Lam

Sơn Môn vừa chỉ cho cổng chính vào Chùa, vừa chỉ cho thế giới thanh tịnh, không có phiền não khổ đau. Cổng chùa thường có ba cửa, cửa lớn ở chính giữa, hai cửa nhỏ ở hai bên, còn gọi là Cổng Tam Quan, cũng gọi là Tam Môn. Ngoài ra, còn có những tên khác là: Quán Mộc Môn, Dược Y Môn, Anh Môn, Nhị Trọng Môn v.v... Tông Tào Động thường dùng Anh Môn và Nhị Trọng Môn. Ở phần hai bên trước cổng, thường an trí các vị Nhơn Vương. Trên Anh Môn (lầu) thường đặt tượng Phật, Bồ Tát hay các vị La Hán. Trên cao, treo một Phạn Chung (Đại Hồng Chung). Nếu chùa lớn, ngoài Sơn Môn còn có Tổng Môn (chỉ có một cửa ra vào), Tam Tùy Quan, Đống Môn, Dược Y Môn và Sắc Sứ Môn còn gọi là Hương Đường Môn.

Điện Phật còn gọi là Đại Hùng Phong Điện, Đại Hùng Điện, Đại Điện v.v... tọa lạc ngay chính giữa, trong đó có Tu Di Đàn thờ Đức Bổn Tôn Thích Ca Mâu Ni ngay trung tâm, hai bên trái phải của Phật, mỗi bên an trí một tượng Bồ Tát. Đa phần, thờ Đức Phật Thích Ca ở giữa (vị khai Tổ của Phật Giáo). Tôn Giả Ca Diếp trưởng tử Phật, Sơ Tổ Thiền Tông. Tôn Giả A Nan đệ tử thị giả của Đức Phật Thích Ca, vị Tổ Sư thứ hai, thị giả hầu Phật được nghe nhiều lời giảng nhất. Ngoài ra, còn thờ Tam Tôn Phật: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (biểu hiện Đức Phật trong hiện tại), Đức A Di Đà Như Lai (biểu hiện Đức Phật trong quá khứ). Đức Di Lặc Như Lai (biểu hiện Đức Phật trong tương lai). Tam Tôn Phật cũng còn được hiểu là: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Bồ Tát Văn Thù (biểu trưng cho trí tuệ Phật) và Bồ Tát Phổ Hiền (biểu trưng hạnh nguyện Phật). Phía đông của Phật Điện (từ ngoài nhìn vào phía bên mặt) thờ Đàn Thổ Địa hay thờ Bồ Tát Chiêu Bảo Thất Lang Đại Quyền Tu Lý. Phía Tây (phía trái từ ngoài nhìn vào) là Tổ Sư Đàn, thờ Sơ Tổ Đạt Ma. Thông thường bàn thờ làm bằng gạch hay đá, có chỗ để bày dâng lễ cúng. Đặc biệt, phần nghi lễ được tổ chức tại Phật Điện.

Pháp Đường là nơi vị Trụ Trì thuyết Pháp cho Tăng sĩ đang tu tập. Khi thuyết Pháp vị Trụ Trì được cung kính như đại diện chư Phật, chư vị Tổ Sưtrách nhiệm truyền trao giáo Pháp cho thính chúng, cho nên trong Pháp Đường không thiết tượng Phật nào cả. Tại Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự, có đặt tượng Đức Quan Thế Âm Bồ Tát biểu trưng tâm từ bi bao la của Phật, một lý do khác, như đã trình bày ở trước, ở Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự, Tổ Đường chính là Pháp Đường, nơi đó là Đại Tổ Đường được xem là một Đạo Tràng thuyết pháp của Tổ khai sơn Thiền Sư Oánh Sơn. Giữa Tổ ĐườngPháp Đường cũng còn có ý nghĩatôn trọng giữ gìn lời giáo huấn của Tổ. Tại Đại Tổ Đường nầy, đàn trên cao ở chính giữa, thờ tượng Tổ khai sơn Thiền Sư Oánh Sơn, hai bên trái phải thờ Thiền Sư Đạo Nguyên, Cao Tổ và thờ Thiền Sư Nga Sơn Chiêu Thạc, vị Tổ thứ hai của Tổng Trì Tự. Ngoài ra, các tượng của chư vị Tổ Sư cũng được thờ tại đây. Tại Pháp Đường thường có những thời Kinh sáng, trưa, tối và hầu như tất cả nghi lễ quan trọng đều cử hành tại đây.

Khố Viện hay Khố Lý thờ tượng Vi Đà Thiên và tượng Đại Hắc Thiên còn gọi là Đài Hương Tích, vừa là nơi chứa thực phẩm cho chư Tăng thường trụ và khách Tăng, vừa là nơi thâu nhận thực phẩm cúng dường, cũng là chỗ xay thóc.

Dục Thất, nhà tắm, có thờ tượng Tôn Giả Bạt Đà Bà La. Trong Chùa, Tăng Đường, Đông Ty và Dục Thất là ba nơi cần phải giữ thật trang nghiêm yên tĩnh, tuyệt đối cấm không được cười đùa, nói chuyện riêng tư, không được tạo ra âm thanh ồn ào. Ngay cả, tắm rửa kỳ cọ thân thể cho thanh tịnh cũng quan trọng như những việc tu hành khác.

Tăng Đường có nơi gọi là Vân Đường, cũng còn gọi là Tuyển Phật Trường, mà những chữ nầy được treo ngay ở chính giữa. Thông thường người ta còn gọi nơi nầy là Tọa Thiền Đường nhưng Tông Tào Động không gọi là Tọa Thiền Đường vì gọi như thế nghĩa là phân biệt chỗ hành thiền khác với nơi ăn uống. Tăng Đường là nơi mà chư Thánh Tăng và chư Bồ Tát thường lui tới, vốn gọi là Thánh Tăng Đường. Trong Thất Đường Già Lam của Tông Tào Động cũng có những nơi quan trọng biểu trưng hiện hữu của Thần Thánh, cũng có thể gọi là nhiệm mầu thiêng liêng, mà tuyệt đối không ai, cả người trong Chùa lẫn người ở ngoài tự ý vào được.

Đồng thời, Tăng Đường chia làm hai phần, bên ngoài là nơi dùng cơm, uống nước của chư Tăng, bên trong còn gọi là Nội Đường hay Đường Nội thờ chư vị Thánh Tăng như Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Quan Thế Âm, cũng có Chùa thờ Tôn Giả Kiều Trần Như, trên cái Trang ngay chính giữa. Bên dưới thiết kế những chỗ ngồi thiền, gọi là Trường Liên Sàng, là những cái đơn cao chừng một mét, rộng chừng một chiếc chiếu (Tatami), để ngồi Thiền mặt hướng vào tường hoặc cửa sổ. 

Còn có những cái Đơn khác gọi là Hàm Quỹ, mặt bằng độ chừng 30 cm làm bằng gỗ, bên trong Hàm Quỹ (cái rương) đựng y áo và bình bát, phía dưới trải ra làm chỗ nghỉ, còn gọi là Tịnh Duyên, bởi vì chỗ nầy, vật nầy cũng dùng để làm nơi ăn uống. Tịnh Duyên có ý là ăn uống trong sạch thanh tịnh. Ngay cả ở bên ngoài cũng có kê những chiếc Đơn như thế. 

Bên ngoài còn có những giá treo chuông gọi là Tăng Đường Chuông, Ngoại Đường Chuông và có cả Pháp Cổ (trống) cũng như những pháp cụ khác để báo hiệu khi cần thiết. Những việc như đọc sách, viết lách, cạo tóc, khâu vá v.v.., đều thực hiện trong liêu chúng. Mô hình liêu chúng là giữa liêu đặt tượng Bồ Tát Quan Thế Âm, hoặc tượng Hư Không Tạng Bồ Tát, chỉ có Hàm Quỹ (cái rương) và Tịnh Duyên (chỗ ăn) và liêu chúng gần Tăng Đường.
Đông Ty là Tiện Sở (cầu xí) cũng còn gọi là Tây Tịnh, nhưng chữ nầy bây giờ không còn dùng đến nữa, ở nơi nầy thường để tượng Điểu Sô Sa Ma Minh Vương.

III.2.4 Trường Hợp Những Tự Viện Thông Thường

Tóm lại, các vấn đề xây dựng như thế nào, ai xây, xây ở đâu, khi nào của các chùa thuộc Tông Tào Động lệ thuộc vào vấn đề xã hội địa phương và nguyện vọng của mọi người nữa. Thật ra, mỗi chùa có mỗi điều kiện, mỗi tính cách và mỗi mục đích khác nhau, không thể phán đoán chung chung được, tuy nhiên, có thể phân loại ra như sau:

Thứ nhất, Tu Hành Tự là tự viện như một đạo tràng dùng để tu tậptọa thiền. Những tự viện nầy vốn có liên hệ với Tông Tào Động từ xưa, như Lưỡng Đại Bổn Sơn, mà dù cho chùa ấy có gì đặc biệt đi chăng nữa, thì vấn đề căn bản vẫn là chỗ để tu hành theo Tông Tào Động 

Thứ hai, Bồ Đề Tựtự viện để lễ báiphụng thờ Ngài Hoằng Pháp Đại Sư, Ngài Quan Thế Âm, Thất Phước Thần, Linh Trường, thường thấy nơi các chùa thuộc Tông Pháp Tướng, Tông Hoa Nghiêm, Tông Thiên Thai, Tông Chơn Ngôn v.v... về sau dù đã đổi sang Tông Tào Động nhưng vẫn còn giữ tôn phong cũ.

Thứ ba, Kỳ Thọ Tự là chùa thờ Đức Quan Âm, Ngài Dược Sư, Ngài Địa Tạng, Ngài Bất Động, các vị Tổ Sư, Thần Lúa, Thiên Cẩu v.v... vì nhu cầu của mọi người đến tự viện lễ bái cầu nguyện.

Thứ tư, Quán Quan Tự là chùa lịch sử danh lam thắng cảnh, gần gũi mọi ngườicảnh trí đẹp, được nhiều người tới lui vãn cảnh.

Tuy nhiên, trừ Lưỡng Đại Bổn Sơn và những tự viện lớn, còn các chùa thuộc Tông Tào Động về hình thức căn bản là những Già Lam theo mô hình: Sơn Môn, Bổn Đường, Khai Sơn Đường, Vị Bi Đường, Khố Lý, Chung Lầu, Tọa Thiền Đường v.v... mà chúng ta lần luợt tiếp xúc với những phần nầy.

Sơn Môn thờ tượng Nhân Vương, trên lầu cao thờ tượng Phật, Bồ Tát, nhưng cũng có nơi không có, bởi vì những chùa nhỏ nhiều khi không có Sơn Môn (cửa ra vào) nữa, đôi khi chỉ khắc tên chùa trên phiến đá thay cho cổng tam quan.

Bổn Đường cũng còn gọi là Phật Điện hay Pháp Đường, bên trong thờ Bổn Tôn, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, hoặc thờ Tam Tôn, song chính giữa vẫn là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Thế nhưng, tùy theo sự thành lập của tự viện, có những đặc thù riêng, không phải hoàn toàn giống nhau, có chùa thờ Đức A Di Đà Như Lai, Đại Nhật Như Lai, Dược Sư Như Lai v.v... có chùa thờ Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, Bất Động Minh Vương, Biện Tài Thiên và cũng còn nhiều tượng khác nữa. Tựu trung vẫn là hình tượng chư Phật và chư Bồ Tát mà ở đây có thể rõ thêm rằng đó là đặc trưng Phật tánh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni rộng lớn bao la như thế.

Trên bốn bức tường chung quanh Bổn Tôn trong Chánh Điện thường có 18 vị A La Hán. Hai bên tả hữu của Bổn Tôn thường thờ tượng Chiêu Bảo Thất Lang Đại Quyền Tu Lý Bồ Tát và tượng Đạt Ma Đại Sư. Sau Chánh Điện ngăn ra hai bên phải trái thờ linh vị của Tín Đồ Phật Tử.

Tại Bổn Đường (Chánh Điện) sáng, trưa, tối đều có tụng Kinh, nơi đây thường cử hành những nghi lễ cầu an, cầu siêu, thuyết pháp, lễ hằng thuận v.v...

Khai Sơn Đường tiếp giáp sau Bổn Đường, ở giữa thờ Ngài Cao Tổ Đạo Nguyên Thiền Sư hay Thái Tổ Oánh Sơn Thiền Sư. Ngoài hai vị Tổ Sư, còn thờ tượng bằng gỗ của vị Hòa Thượng khai sơn chùa ấy nữa. Hai bên phải trái thờ tượng của các vị Trụ Trì, linh vị của những người sáng lập chùa, nơi đây cũng thờ linh vị Tín Đồ nữa, miễn sao ở giữa có nơi làm lễ là được. Phía trước còn bàn kinh, có gối để lạy, có chuông mõ hai bên.

Vị Bi Đường là nơi linh vị Tín Đồ. Thông thường có thể thờ ở phía sau Chánh Điện hay Khai Sơn Đường, nhưng tùy địa phương Vị Bi Đường được xây riêng một nơi biệt lập bên ngoài Bổn Đường hay Khai Sơn Đường. Ở giữa, thờ tượng Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Mỗi gia đình có mỗi bàn thờ nhỏ và tự quản lý, cúng dường và tự mỗi gia đình đến chùa chăm sóc lấy.

Khố Lý được xây dựng ở bên phải Chánh Điện và mặt hướng về Chánh Điện. Nơi đây gồm có hành lang, phòng tiếp lễ vật, phòng khách, phòng ở của vị Trụ Trì, phòng ở của gia đình Trụ Trì, phòng sinh hoạt, phòng chuẩn bị, phòng ăn, phòng tắm, nhà vệ sinh v.v... Tùy theo chùa, Khố Lý lớn hay nhỏ, có chùa Khố Lý còn lớn hơn Chánh Điện nữa.

Tọa Thiền Đường được xây dựng phía bên trái hướng về Chánh Điện, đối diện tương xứng với khố lý. Cũng tùy điều kiện đất đai, đôi khi được thiết lập ngay tầng dưới của Khai Sơn Đường, những chùa không có Tọa Thiền Đường, có thể dùng Chánh Điện hay Khai Sơn Đường thay thế.

Lầu Chuông được thiết kế ở một góc vườn. Mỗi sáng tối thỉnh chuông nhứt định vào một thời điểm nào đó. Chùa nào không có lầu chuông, thường treo chuông bên ngoài cửa hay bên trong Chánh Điện.

Ngoài ra, trong vườn còn xây những nơi như: Đại Sư Đường, Trấn Thủ Đường, Đạo Hà Đường (nơi thờ Thần Lúa), Thần Xã, Sáng Khố v.v...

III.2.5 Công Việc Của Các Vị Tăng

Già Lam không phải chỉ thờ Phật, mà với người sống, nơi đây là những Đạo Tràng tu hành để thành Thánh, thành Phật. Già Lam của các chùa tu Thiền, như đề cập ở trên, được tổ chức theo thể thức sinh hoạt cộng đồng với mục đích tu hành. Riêng Thiền Tông, đặc biệt Tào Động Tông, có sự phối trí khác biệt. Chư Tăng ở chùa tu hành, tất cả nhất định phải phân công công việc để làm, không ai không làm việc, những công việc từ thời Lưỡng Tổ Đại Sư cho đến bây giờ vẫn thế. Được gọi là người tu, việc đầu tiên ở chùa, phải có khả năng làm việc hiệu quả. Không những chỉ riêng người tu ở chùa Tu Hành Tự, mà cho tất cả những tự viện lấy chùa Tu Hành Tự làm căn bản. Chư Tăng trong chùa phải làm việc được giải thích như sau:

Trụ Chức nghĩa là viết tắc của Chức Trụ Trì, người có trách nhiệm lớn lao đối với chùa. Với tư cách là “Tôn Giáo Pháp Nhơn” đại biểu cho chùa đó. Nếu chùa lớn, cũng còn xưng là Sơn Chủ thay cho Trụ Trì, đôi khi thay đổi gọi là Đường Đầu Hòa Thượng, mà thông thường gọi là Phương Trượng, Đường Đầu hoặc Hòa Thượng. Có nơi gọi vị Trụ Trì là Ojutsusan và Hòa Thượng là Ossan.

Quản Thủ là Chức Vụ của hai đại Bổn Sơn, cũng còn gọi là Quản Thủ Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự và Quản Thủ Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự. Ở hai Đại Bổn Sơn còn có vị Phó Quản Thủ, vị thứ hai sau Quản Thủ nữa.

Tây Đường là nơi ở của những vị Cao Đức do vị Trụ Trì cung thỉnh đến để chỉ đạo các Phật sự, bình thường vị Tăng nầy đứng sau vị Trụ Chức.

Giám Viện nghĩa là người thay thế vị Trụ Trì, làm Tổng Quản quán sát tất cả những công việc và mọi vấn đề hành chánh của chùa. Trước đây, vị nầy đứng đầu trong bảng Lục Hòa, mà có nơi gọi là Giám Tự. Ngoài ra còn có Phó Giám Viện thay thế việc điều hành mỗi khi vị Giám Viện vắng mặt .

Hậu Đường là chỗ hành trì của vị Tăng trực tiếp chỉ đạo.

Đơn Đầu là ngôi vị thứ hai của vị Tăng ở Hậu Đường đang hành trì và trực tiếp chỉ đạo

Phó Tự là vị Tăng lo việc chi tiêu của chùa, lo trọn một trong 6 phép hòa kính.

Tri Khố là vị Tăng lo quản lý thức ăn, tiền bạc và giúp đỡ cho vị phó Trụ Trì.

Duy Na là người giúp đỡ cho vị Hậu Đường và Đơn Đầu, chỉ đạo và hướng dẫn chư Tăng tu hành, quản lý Tăng Đường, tụng khai Kinhhồi hướng mỗi thời tụng Kinh, giữ vững kỷ cương một trong 6 phép hòa kính, tuy nhiên, có chùa xem đây là việc của vị Giám Tự.

Duyệt Chúng là vị giúp đỡ cho Duy Na, phần vụ thủ mõ.

Đường Hành cũng là nhiệm vụ của Duy NaDuyệt Chúng, phải gõ khánh, tụng khai Kinhhồi hướng trong mỗi thời công phu tụng Kinh.

Điển Tọa là vị Tăng lo việc ăn uống vâng giữ một trong 6 phép lục hòa.

Phó Điển còn gọi là Phạn Đầu, vị Tăng hổ trợ giúp việc cho Điển Tọa.

Trực Tế là vị Tăng chuyên lo việc chấp tác, trùng tu sửa chữa Già Lam, chữa đường sá, cũng là người vâng giữ một trong 6 phép lục hòa.

Tri Khách là vị Tăng lo việc tiếp đón khách.

Thị Chơn là vị Tăng chăm sóc chỗ thờ Tổ Khai Sơn.

Cúng Chơn là vị Tăng giúp đỡ Thị Chơn, cũng gọi là Truyền Cúng.
Tri Điện là vị Tăng quản lý Phật ĐiệnPháp Đường. Người phụ tá gọi là Diện Hạnh.

Thượng Sự là vị Tăng lo việc thư ký, bảo quản văn thơ giấy tờ.

Tri Dục cũng còn gọi là Dục Chủ, vị Tăng quản lý nhà tắm.

Thị Cục Trưởng là vị Tăng thân cận, chăm lo và giúp đỡ vị Trụ Trì. Ở hai Đại Bổn Sơn những vị nầy hổ trợ vị Quản Thủ.

Thị Giả là vị Tăng thân cận hầu hạ vị Trụ TrìChư Tôn Đức đến thăm chùa. Có 5 loại Thị Giả chánh thức như:

Thiêu Hương Thị Giả, là người có trách nhiệm lo việc hương đăngdâng hương cho vị Trụ Trì, mỗi khi có lễ.

Thư Trạng Thị Giả là vị lo vấn đề thư từ cho vị Trụ Trì.
 Thỉnh Khách Thị Giả là vị Tăng lo ứng đối tiếp đãi khách của vị Trụ Trì.

Y Bát Thị Giả là vị Tăng lo Pháp Y cho vị Trụ Trì.

Thang Dược Thị Giả là vị Tăng lo thức ăn và thuốc men cho vị Trụ Trì

Thông thường chỉ hai hay ba vị kiêm nhiệm luôn.

Thị Thánh nghĩa là Thị Giả của chư Thánh Tăng thờ tại Tăng Đường (như Ngài Văn Thù Bồ Tát), lo việc cúng dường nước hoặc trà nóng lên Bồ Tát.
Giảng Sư nghĩa là vị Thầy thường giảng nghĩathuyết pháp cho Chư TăngTín Đồ.

Tạng Chủ tức là vị quản lý tạng Kinh và điện thờ có nhiều bảo vật.

Tịnh Đầu là vị Tăng quản lý Đông Ty (nhà xí).

Tấu Giả là vị Tăng có trách nhiệm thông tin cho khách hoặc những liêu xá, khi có những việc cần thiết.

Thủ Tọađịa vị cao nhất của chư Tăng, còn gọi là Thượng Tọa.

Thư Ký nguyên là chức vụ Thị Giả Thư Trạng, phụ trách những công việc phụ giúp vị Thủ Tọa liêu, thường ngồi ở vị trí thứ hai sau Thượng Tọa.

Biện Sự là vị Tăng còn trẻ luôn ở bên vị Thư Ký, Thủ Tọa, nơi liêu Thủ Tọa.

Hành Giả là vị Tăng còn đang tu học, gần gũi thân cận, làm các công việc.
Ngoài ra, ở Điện Đường, Điện Ty, Đường Ty, Phật Điện, Pháp Đường khi có lễ, vị thỉnh chuông gọi là Chung Ty, vị lo công việc trong Tăng Đường gọi là Trực Đường, vị lo việc dọn dẹp gọi là Thanh Tảo Đương Phiên v.v... nhiều lắm không thể ghi chi tiết ra đây hết. Vả lại, còn có khá nhiều công việc như xuất bản, bố giáo, và nhiều việc không cần có chức vụ ở Lưỡng Bổn Sơn nữa, song tùy theo tính chất quy mô hay đơn giản của chùa, tùy theo địa phương, tùy theo xã hội mà công việc có thể tùy nghi sửa đổi thêm hay bớt.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31298)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10449)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11137)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12620)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10730)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16466)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10735)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22764)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 11904)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11408)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10583)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12251)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11094)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 9934)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10235)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11792)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10609)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12254)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9702)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11177)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13748)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9504)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12517)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9602)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10331)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10433)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10207)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9796)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 10978)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 11932)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10074)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10694)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9460)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9815)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8694)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9417)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14434)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8703)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12446)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10328)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 8974)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10472)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9234)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8703)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10417)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9066)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8286)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 11921)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9628)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10144)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10164)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 18967)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9332)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8910)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9490)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 8929)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14655)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10017)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8268)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8817)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8881)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8659)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9252)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14449)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 8955)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8661)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 8963)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10433)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8543)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9909)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24140)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10078)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 10946)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8904)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9382)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7938)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9175)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15233)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10245)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9475)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17276)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21207)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12064)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10153)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19086)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 25828)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7901)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14658)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10552)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11258)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9426)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18479)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12257)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11792)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10607)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13243)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9896)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9191)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9297)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15717)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant