Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bảy bước đi sen nở

12 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12811)
Bảy bước đi sen nở

BẢY BƯỚC ĐI SEN NỞ
Huỳnh Ngọc Trảng 

blankTuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ hàm chứa nhiều tầng ngữ nghĩa vừa phổ quát vừa riêng biệt. Ở bài viết này, chúng ta thử tìm hiểu một tình tiết của kỳ tích Phật đản sinh: Bảy bước đi sen nở.

Trong các ghi chép về sự kiện này, có lẽ nội dung đoạn văn trong kinh Dirghagama (Trường A Hàm) là đáng chú ý nhất: Thái tử Sakyamuni Gautama, khi vừa sinh ra đã đi bảy bước về mỗi phía trong bốn phương và chỉ tay phải lên trời, tay trái xuống đất, tuyên bố: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”. Dưới mỗi bước chân của thái tử, đất nẻ ra, mọc lên một đoá sen… Ở đây có hai biểu trưng cần xem xét trước tiên: hoa sen và con số 7.

Sen và các biểu trưng của sen

1. Sen (Nelumbo Nucifera) là một loại thực vật thuộc họ “túc căn thảo” (loại cây nảy mầm từ rễ củ), màu sắc đẹp đẽ, nở vào mùa Hạ, mọc từ bùn lầytinh khiết, thơm tho. Do đó, sen được mọi người, mọi dân tộc ưa chuộng, kể cả người Việt:

Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh, bông trắng, lại chen nhuỵ vàng.

Nhuỵ vàng, bông trắng, lá xanh,

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Rõ ràng, sắc tướng toàn mỹ trội bật “trong đầm gì đẹp bằng sen” là hiệu quả trực quan khiến sen chiếm được mỹ cảm của thế nhân, nhưng chính tính vô nhiễm “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” đã làm sen trở thành loài hoa đệ nhất hạng. Sen mọc từ bùn nước nở thành đoá hoa xinh đẹp cực kỳ: những sức mạnh của sự sống có thể biến đổi bùn lầy của tồn tại vật chất ấy thành Cực lạc, Niết bàn. Hoa sen – Phật Thích Ca Mâu Ni ngự trên đó – là bản thể Đức Phật, không bị bùn lầy samsàra tác động.

Chính Phật là Bậc Tự Tại (Svayambhu) nên đài toạ hoa sen biểu thị sự thiêng liêng tôn kính này. Nhiếp Thừa Luận Thích, 15, có giảng rằng: Hoa sen có 4 đức: hương (thơm), tịnh (sạch), nhu nhuyễn (mềm mại) và khả ái (đáng yêu). Đó là bốn đức Chân như, biểu trưng của Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Lại nữa, Hoa Nghiêm thám huyền ký, quyển 1, chỉ rõ các ý nghĩa tượng trưng của hoa sen: 1/ Vi diệu nghĩa (chỉ Đức Phật rời khỏi tầm thường nên nói hoa là nghiêm); 2/ Khai phu nghĩa (chỉ hạnh mở giác bày thù thắng); 3/ Đoan chính nghĩa (chỉ tướng viên mãn); 4/ Phân hinh nghĩa (chỉ đức thơm tho, tự phát lộ thơm ngát); 5/ Thích duyệt nghĩa (chỉ cái đức thắng vượt tạo nên niềm hoan lạc không dứt); 6/ Xảo thành nghĩa (chỉ đức tướng đã tu thành rất khéo đẹp); 7/ Quang tịnh nghĩa (chỉ việc dứt lìa chướng nghiệp mà được thanh tịnh); 8/ Trang sức nghĩa (tuỳ theo bản tánh mà làm tăng vẻ đẹp); 9/ Dẫu quả nghĩa (chỉ việc sinh ra nhân để tạo quả của Phật); và 10/ Bất nhiễm nghĩa (chỉ việc ở trần thế mà không bị tiêm nhiễm như sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”).

2. Ngoài ý nghĩa biểu trưng bản thể Đức Phật, sen cũng biểu thị tầng ngữ nghĩa phổ quát hơn. Xuất hiện từ bùn nước của sen, chính sự hiển hách trong bối cảnh đó, sen biểu hiện sự sống xuất hiện đầu tiên trong khoảng mênh mang không rõ sắc màu của những vùng nước khởi nguyên; đó là biểu trưng sự sinh tạo, tái sinh, phục sinh… Như vậy, hoa sen, trước hết là bộ phận sinh tạo, bảo đảm cho các cuộc sinh thànhtái sinh truyền lưu mãi mãi (I, 800).

Ý nghĩa biểu trưng này thấy trong truyền thống Ấn Độ cổ đại, sen được coi là sinh ra từ bóng tối và bừng nở ngoài ánh sáng, biểu thị sự thăng hoa tinh thần. Ở đó, nước là trạng thái bất phân nguyên sơ, sen biểu thị sự hiển hiện phát ra từ đó, sen nở trên bề mặt như một quả trứng thế giới: Nụ hoa biểu trưng quả trứng, hoa nở chỉ cho trứng nở; nó thực hiện khả năng hàm tàng mầm mống ban đầu. Một minh dụ cụ thểthần thoại khai sinh vũ trụ Hindu, được thể hiện trong khoa tranh tượng Ấn giáo: Vishnu ngự trên mặt đại dương nhân quả và từ rốn của Vishnu nhô lên một đoá sen nở chứa đựng thần Sáng tạo Brahma, khởi nguyên xu hướng khai mở (rajas). Ở đây, hoa sen (mọc từ rún Vishnu) biểu thị ngọc châu Mani – của đất và mặt khác cũng biểu trưng cho nước và sự sáng tạo (II,2). Thần thoại thiên địa khai tịch Hindu nói trên của phái Vishnu đưa ra một cảnh giới có mối tương đồng với thế giới trang nghiêm thanh tịnh “Liên hoa tạng” của Đại Tỳ Lô Giá Na trong kinh Hoa Nghiêmthế giới “Liên hoa hải tạng” ở kinh Phạm Võng.

Hoa sen không những có vai trò quan trọng trong điện thờ Hindu mà cả trong Phật giáo. Nó biểu trưng cho sự tự thân sáng tạo. Điều này giải thích tại sao thần Brahma của đạo Hindu ngồi trên hoa sen và chư Phật, Bồ tát đều lấy hoa sen làm đài toạ. Các Phật A Đề (Adi Buddha) đều tự xuất khởi từ ngọn lửa phát lên từ hoa sen.

Việc hoa sen biểu thị như quả trứng thế giới (với nụ / búp là trứng; hoa khai là trứng nở, khai mở) đã nêu trên đây có thể thấy trong các biểu dụ của tông Tịnh Độ: 1) Thai cung: Nơi vãng sinh của các bậc hạ phẩm hạ sinh. Hành giả tu các công đức với tâm nghi hoặc, tuy vãng sinh về Tịnh độ Di Đà, nhưng lại ở trong búp sen chứ không được ra, trong 500 năm không được thấy Phật, nghe pháp, xa lìa tất cả thiện căn thù thắng. Giống như nằm trong thai mẹ tối tăm, nhưng hành giả vẫn cho là nằm trong cung điện nên gọi là Thai cung. Hội vô lượng thọ / kinh Đại Bảo Tích, 18: “Các chúng sinh ấy ở trong búp sen…” (III7546); 2) Liên thai: Người niệm Phật vãng sinh Tịnh độ đều từ hoa sen hoá sinh như trong thai mẹ nên gọi là liên thai. Liên tông bảo giám: “Khi vãng sinh Tịnh độ, vào liên thai kia, thọ hưởng các sự sung sướng” (III,3717). Nói rộng hơn, hoa sen biểu thị cho nguyên lý nữ tính, điều này Kim Cang thừa trình bày những biểu trưng của hoa sen cụ thểchi tiết hơn (II,2).

Bảy bước đi sen nở

1. Cũng như bộ năm (ngũ) truyền thống Trung Quốc (bắt nguồn từ việc quy toàn bộ mọi thứ vào Ngũ hành: Ngũ kim, ngũ vị, ngũ tạng, ngũ cốc, ngũ luân…), bộ bảy (thất) là biểu trưng cho một tổng thể hoàn chỉnh. Bộ bảy / con số 7 xuất hiện phổ biến trong hầu hết các nền văn hoá, các tôn giáo: từ đạo Cơ Đốc (7 xuất hiện 40 lần trong Khải huyền, 77 lần trong Cựu ước và Phúc âm: 7 tuần lễ, 7 phép lạ, 7 xác nhận của Chúa Kitô… [I,71-72] đến đạo Hồi (7 tầng trời, 7 tầng đất, 7 biển, 7 ngàn địa ngục, 7 cửa, đi 7 vòng quanh K’aba là nghi lễ bắt buộc của tín đồ hành hương đến La Mecque… [I, 72]), đạo Vệ đà, thuật Yoga (Ấn Độ)… Đối với Phật giáo, bộ bảy cực kỳ phong phú: thất bảo (thất bảo chúc [7 loại cháo cúng Phật], thất bảo hoa, thất bảo tháp, thất bảo ngục…), thất bất khả tị (7 điều không tránh được), thất bất thiện luật nghi (7 ác giới), thất cảnh giới, thất cấu, thất cú đáp, thất chân như, thất chi, thất chi luận pháp, thất chúng, thất chủng biện, thất chuyển thức, thất tri (7 thiện pháp), thất uế hạnh, thất xứ thuyết, thất xứ trưng tâm v.v…

Bộ bảy biểu trưng cho một tổng thể hoàn chỉnh, không chỉ giới hạn ở việc định lượng một tập hợp tối đa mà còn có nghĩa là một chu kỳ toàn hảo, viên mãn, một sự hoàn thiện năng động… Trạng thái quá độ sau khi chết kéo dài 49 ngày (7x7) mà chúng ta thấy trong kinh Địa Tạng là một chu kỳ “trọn vẹn của thời gian” chuyển đổi từ cái này đến cái khác: một sự đổi mới. Ví dụ khác: Mỗi kỳ mặt trăng kéo dài 7 ngày và 4 kỳ trăng khép lại một chu kỳ (7x4=28). Ở đó, số 7 chỉ chiều hướng của một sự thay đổi sau một chu kỳ đã hoàn thành và của chu kỳ mới; các chu kỳ kế tiếp chuyển đổi / miên viễn. Theo Tom Chetwynd: “Giống như mười hai (3x4), bảy (3+4) là đơn vị thời gian cơ bản và thời gian là chiều kích của tinh thần và là thành phần chính yếu cần thiết cho sự thay đổi hay biến đổi. Vì vậy nó là biểu trưng cho năng lượng và sự vận động, đối lập với vật chấtvật liệu; hay nói rộng hơn, đây là kết hợp thể của hình vuông (4 góc) của thực tại tĩnh và nguyên lý động của tam giác (3 góc), hệt như lửa làm chuyển hoá các nguyên tố khác (giống như Ngọc châu trong đoá sen – Om Mani Padme hum – là vũ trụ chứa đựng pháp / dharma đoạn trừ ảo ảnh Màya để chuyển thành Niết bàn – HNT). Số bảy thường là bước/ chặng cuối cùng trước khi hoàn thành, từ không đến vô tận” (IV, 287-288). Những dữ liệu nêu trên ít nhiều đã cung cấp cho chúng ta những căn cứ để hiểu một khía cạnh của bảy bước đi sen nở.

2. Trong Kinh tạng, hoa sen với nhiều dạng thứ đặc dị xuất hiện khá nhiều, tích hợp thêm các tinh nghĩa phong phú. Kinh Đại bát nhã có nhắc đến “Thiên diệp liên hoa” (hoa sen nghìn cánh), luận Đại trí độ lại phân làm 3 loại hoa sen: Nhân hoa (hơn 10 cánh), Thiên hoa (100 cánh), Bồ tát hoa (1.000 cánh); lại nữa, trong kinh Đại thừa Bản Sinh Tâm Địa Quán đề cập đến các thần Phật ngồi trên hoa sen trăm cánh giảng bách pháp minh môn, ngồi trên sen ngàn cánh giảng thiên pháp minh môn, ngồi trên sen vạn cánh giảng vạn pháp minh môn cho các hạng Bồ tát. Còn đài sen mà Phật Lô Xá Na ngồi (kinh Phạm Võng), chung quanh có ngàn cánh thị hiện hàng ngàn Đức Thích Ca, ngồi dưới cội bồ đề, cùng lúc thành đạo…

Trong các dạng thức của hoa sen, chúng ta cần lưu ý đến dạng hoa sen phổ biến nhất là sen tám cánh (bát diệp) mà Phật ngồi ở chính giữa (trung toà) trong đồ hình gọi là Cửu tự mạn đà la. Ở đây, tám cánh hoa biểu thị không gian tám hướng và sen, như vậy, còn là biểu tượng cho sự hài hoà vũ trụ. Ý nghĩa này thể hiện trong các đồ hình Mạn đà la cũng như các Yantra. Tám hướng biểu thị cho tổng thể không gian. Tám ở đây là 4 phương chính và 4 phương bàng; giản lược lại, bốn phương chính cũng đủ để biểu thị cho tổng thể không gian. Đó là điều mà đoạn trích dẫn trong kinh Trường A Hàm nêu ở đầu bài viết đã chỉ rõ: Thái tử Sakyamuni Gautama, khi vừa sinh ra, đã đi 7 bước về mỗi phía trong bốn phương.

3. Ở chiều kích khác, số bảy biểu thị 6 hướng không gian cộng với 1 trung tâm. Một thần thoại Hindu giáo gắn cho Mặt trời 7 tia sáng, ứng với sáu hướng không gian, tia sáng thứ 7 ở trung tâm. Tương tự cầu vồng không có 7 sắc mà chỉ có 6: màu thứ 7 là màu trắng, tổng hợp của 6 màu kia. Cũng vậy, vũ trụ luận Ấn Độ cổ đại mà Phật giáo đã thừa kế cũng cho rằng trong lớp biển mặn Hàm hải, mỗi châu (lục địa: divìpa) nằm giữa 7 lớp núi vàng (luân vi) là một đại thiết vi. Lại nữa, ngọn núi trung tâm của vũ trụ luận Phật giáoTu Di sơn (Someru) có “thất bảo giai đạo”, hai đường giai đạo có 7 lớp tường báu, 7 lớp lan can, 7 lớp mành lưới, 7 lớp hàng cây… (III, 6913-6914). Điều này chỉ ra con số bảy là biểu thị cho một tổng thể không gian toàn hảo, một tối đa không còn gì hơn được về lượng lẫn chất.

Trở lại sự kiện “bảy bước về bốn hướng và dưới mỗi bước nở một đoá sen”, chúng ta thấy 7 là tổng số 6+1. Đây là biểu tượng cho sáu hướng không gian và một trung tâm (duy ngã độc tôn); 6 hướng ở đây là 4 phương (Đông Tây Nam Bắc) và hai hướng của trục vũ trụ thẳng đứng (thiên thượng: tay phải chỉ trời và thiên hạ: tay trái chỉ đất). Đó là toàn bộ vũ trụ, hiểu theo nghĩa: “Bốn phương trên dưới là vũ, xưa qua nay lại là trụ” [Đào Duy Anh: Hán Việt từ điển giản yếu, Trường Thi xb, S.1957, tr.567]. Như vậy, nói rộng hơn 6+1 biểu thị cho một tổng thể không gian và tổng thể thời gian. Ở đó, biểu lộ cái bí mật của con số 7: sự trở về với trung tâm, với bản nguyên với kết cục của bộ sáu, hoàn thành ở bộ bảy. Đến đây, chúng ta thấy rõ sự tương hợp giữa sự kiện “đi 7 bước sen nở” về 4 hướng và tư thế/ cử chỉ của Phật đản sinh tạo thành một biểu tượng tổng hợp đa nghĩa mà chúng ta còn phải tiếp tục truy tìm.

Huỳnh Ngọc Trảng

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31297)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10449)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11135)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12620)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10729)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16465)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10735)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22764)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 11901)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11396)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10582)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12249)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11093)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 9934)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10233)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11791)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10607)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12254)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9700)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11176)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13747)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9504)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12517)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9602)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10330)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10433)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10206)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9795)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 10968)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 11931)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10073)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10693)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9458)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9813)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8676)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9415)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14425)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8701)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12444)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10325)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 8972)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10469)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9231)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8698)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10413)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9056)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8284)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 11917)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9625)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10142)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10159)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 18966)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9330)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8907)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9487)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 8926)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14652)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10013)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8265)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8815)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8878)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8647)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9249)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14448)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 8953)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8657)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 8959)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10430)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8539)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9906)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24139)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10073)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 10933)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8902)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9377)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7935)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9173)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15230)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10241)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9472)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17273)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21195)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12060)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10150)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19073)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 25827)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7891)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14647)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10551)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11257)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9424)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18479)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12251)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11791)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10605)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13242)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9893)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9190)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9288)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15716)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant