Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bảy bước đi sen nở

12 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12913)
Bảy bước đi sen nở

BẢY BƯỚC ĐI SEN NỞ
Huỳnh Ngọc Trảng 

blankTuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ hàm chứa nhiều tầng ngữ nghĩa vừa phổ quát vừa riêng biệt. Ở bài viết này, chúng ta thử tìm hiểu một tình tiết của kỳ tích Phật đản sinh: Bảy bước đi sen nở.

Trong các ghi chép về sự kiện này, có lẽ nội dung đoạn văn trong kinh Dirghagama (Trường A Hàm) là đáng chú ý nhất: Thái tử Sakyamuni Gautama, khi vừa sinh ra đã đi bảy bước về mỗi phía trong bốn phương và chỉ tay phải lên trời, tay trái xuống đất, tuyên bố: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”. Dưới mỗi bước chân của thái tử, đất nẻ ra, mọc lên một đoá sen… Ở đây có hai biểu trưng cần xem xét trước tiên: hoa sen và con số 7.

Sen và các biểu trưng của sen

1. Sen (Nelumbo Nucifera) là một loại thực vật thuộc họ “túc căn thảo” (loại cây nảy mầm từ rễ củ), màu sắc đẹp đẽ, nở vào mùa Hạ, mọc từ bùn lầytinh khiết, thơm tho. Do đó, sen được mọi người, mọi dân tộc ưa chuộng, kể cả người Việt:

Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh, bông trắng, lại chen nhuỵ vàng.

Nhuỵ vàng, bông trắng, lá xanh,

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Rõ ràng, sắc tướng toàn mỹ trội bật “trong đầm gì đẹp bằng sen” là hiệu quả trực quan khiến sen chiếm được mỹ cảm của thế nhân, nhưng chính tính vô nhiễm “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” đã làm sen trở thành loài hoa đệ nhất hạng. Sen mọc từ bùn nước nở thành đoá hoa xinh đẹp cực kỳ: những sức mạnh của sự sống có thể biến đổi bùn lầy của tồn tại vật chất ấy thành Cực lạc, Niết bàn. Hoa sen – Phật Thích Ca Mâu Ni ngự trên đó – là bản thể Đức Phật, không bị bùn lầy samsàra tác động.

Chính Phật là Bậc Tự Tại (Svayambhu) nên đài toạ hoa sen biểu thị sự thiêng liêng tôn kính này. Nhiếp Thừa Luận Thích, 15, có giảng rằng: Hoa sen có 4 đức: hương (thơm), tịnh (sạch), nhu nhuyễn (mềm mại) và khả ái (đáng yêu). Đó là bốn đức Chân như, biểu trưng của Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Lại nữa, Hoa Nghiêm thám huyền ký, quyển 1, chỉ rõ các ý nghĩa tượng trưng của hoa sen: 1/ Vi diệu nghĩa (chỉ Đức Phật rời khỏi tầm thường nên nói hoa là nghiêm); 2/ Khai phu nghĩa (chỉ hạnh mở giác bày thù thắng); 3/ Đoan chính nghĩa (chỉ tướng viên mãn); 4/ Phân hinh nghĩa (chỉ đức thơm tho, tự phát lộ thơm ngát); 5/ Thích duyệt nghĩa (chỉ cái đức thắng vượt tạo nên niềm hoan lạc không dứt); 6/ Xảo thành nghĩa (chỉ đức tướng đã tu thành rất khéo đẹp); 7/ Quang tịnh nghĩa (chỉ việc dứt lìa chướng nghiệp mà được thanh tịnh); 8/ Trang sức nghĩa (tuỳ theo bản tánh mà làm tăng vẻ đẹp); 9/ Dẫu quả nghĩa (chỉ việc sinh ra nhân để tạo quả của Phật); và 10/ Bất nhiễm nghĩa (chỉ việc ở trần thế mà không bị tiêm nhiễm như sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”).

2. Ngoài ý nghĩa biểu trưng bản thể Đức Phật, sen cũng biểu thị tầng ngữ nghĩa phổ quát hơn. Xuất hiện từ bùn nước của sen, chính sự hiển hách trong bối cảnh đó, sen biểu hiện sự sống xuất hiện đầu tiên trong khoảng mênh mang không rõ sắc màu của những vùng nước khởi nguyên; đó là biểu trưng sự sinh tạo, tái sinh, phục sinh… Như vậy, hoa sen, trước hết là bộ phận sinh tạo, bảo đảm cho các cuộc sinh thànhtái sinh truyền lưu mãi mãi (I, 800).

Ý nghĩa biểu trưng này thấy trong truyền thống Ấn Độ cổ đại, sen được coi là sinh ra từ bóng tối và bừng nở ngoài ánh sáng, biểu thị sự thăng hoa tinh thần. Ở đó, nước là trạng thái bất phân nguyên sơ, sen biểu thị sự hiển hiện phát ra từ đó, sen nở trên bề mặt như một quả trứng thế giới: Nụ hoa biểu trưng quả trứng, hoa nở chỉ cho trứng nở; nó thực hiện khả năng hàm tàng mầm mống ban đầu. Một minh dụ cụ thểthần thoại khai sinh vũ trụ Hindu, được thể hiện trong khoa tranh tượng Ấn giáo: Vishnu ngự trên mặt đại dương nhân quả và từ rốn của Vishnu nhô lên một đoá sen nở chứa đựng thần Sáng tạo Brahma, khởi nguyên xu hướng khai mở (rajas). Ở đây, hoa sen (mọc từ rún Vishnu) biểu thị ngọc châu Mani – của đất và mặt khác cũng biểu trưng cho nước và sự sáng tạo (II,2). Thần thoại thiên địa khai tịch Hindu nói trên của phái Vishnu đưa ra một cảnh giới có mối tương đồng với thế giới trang nghiêm thanh tịnh “Liên hoa tạng” của Đại Tỳ Lô Giá Na trong kinh Hoa Nghiêmthế giới “Liên hoa hải tạng” ở kinh Phạm Võng.

Hoa sen không những có vai trò quan trọng trong điện thờ Hindu mà cả trong Phật giáo. Nó biểu trưng cho sự tự thân sáng tạo. Điều này giải thích tại sao thần Brahma của đạo Hindu ngồi trên hoa sen và chư Phật, Bồ tát đều lấy hoa sen làm đài toạ. Các Phật A Đề (Adi Buddha) đều tự xuất khởi từ ngọn lửa phát lên từ hoa sen.

Việc hoa sen biểu thị như quả trứng thế giới (với nụ / búp là trứng; hoa khai là trứng nở, khai mở) đã nêu trên đây có thể thấy trong các biểu dụ của tông Tịnh Độ: 1) Thai cung: Nơi vãng sinh của các bậc hạ phẩm hạ sinh. Hành giả tu các công đức với tâm nghi hoặc, tuy vãng sinh về Tịnh độ Di Đà, nhưng lại ở trong búp sen chứ không được ra, trong 500 năm không được thấy Phật, nghe pháp, xa lìa tất cả thiện căn thù thắng. Giống như nằm trong thai mẹ tối tăm, nhưng hành giả vẫn cho là nằm trong cung điện nên gọi là Thai cung. Hội vô lượng thọ / kinh Đại Bảo Tích, 18: “Các chúng sinh ấy ở trong búp sen…” (III7546); 2) Liên thai: Người niệm Phật vãng sinh Tịnh độ đều từ hoa sen hoá sinh như trong thai mẹ nên gọi là liên thai. Liên tông bảo giám: “Khi vãng sinh Tịnh độ, vào liên thai kia, thọ hưởng các sự sung sướng” (III,3717). Nói rộng hơn, hoa sen biểu thị cho nguyên lý nữ tính, điều này Kim Cang thừa trình bày những biểu trưng của hoa sen cụ thểchi tiết hơn (II,2).

Bảy bước đi sen nở

1. Cũng như bộ năm (ngũ) truyền thống Trung Quốc (bắt nguồn từ việc quy toàn bộ mọi thứ vào Ngũ hành: Ngũ kim, ngũ vị, ngũ tạng, ngũ cốc, ngũ luân…), bộ bảy (thất) là biểu trưng cho một tổng thể hoàn chỉnh. Bộ bảy / con số 7 xuất hiện phổ biến trong hầu hết các nền văn hoá, các tôn giáo: từ đạo Cơ Đốc (7 xuất hiện 40 lần trong Khải huyền, 77 lần trong Cựu ước và Phúc âm: 7 tuần lễ, 7 phép lạ, 7 xác nhận của Chúa Kitô… [I,71-72] đến đạo Hồi (7 tầng trời, 7 tầng đất, 7 biển, 7 ngàn địa ngục, 7 cửa, đi 7 vòng quanh K’aba là nghi lễ bắt buộc của tín đồ hành hương đến La Mecque… [I, 72]), đạo Vệ đà, thuật Yoga (Ấn Độ)… Đối với Phật giáo, bộ bảy cực kỳ phong phú: thất bảo (thất bảo chúc [7 loại cháo cúng Phật], thất bảo hoa, thất bảo tháp, thất bảo ngục…), thất bất khả tị (7 điều không tránh được), thất bất thiện luật nghi (7 ác giới), thất cảnh giới, thất cấu, thất cú đáp, thất chân như, thất chi, thất chi luận pháp, thất chúng, thất chủng biện, thất chuyển thức, thất tri (7 thiện pháp), thất uế hạnh, thất xứ thuyết, thất xứ trưng tâm v.v…

Bộ bảy biểu trưng cho một tổng thể hoàn chỉnh, không chỉ giới hạn ở việc định lượng một tập hợp tối đa mà còn có nghĩa là một chu kỳ toàn hảo, viên mãn, một sự hoàn thiện năng động… Trạng thái quá độ sau khi chết kéo dài 49 ngày (7x7) mà chúng ta thấy trong kinh Địa Tạng là một chu kỳ “trọn vẹn của thời gian” chuyển đổi từ cái này đến cái khác: một sự đổi mới. Ví dụ khác: Mỗi kỳ mặt trăng kéo dài 7 ngày và 4 kỳ trăng khép lại một chu kỳ (7x4=28). Ở đó, số 7 chỉ chiều hướng của một sự thay đổi sau một chu kỳ đã hoàn thành và của chu kỳ mới; các chu kỳ kế tiếp chuyển đổi / miên viễn. Theo Tom Chetwynd: “Giống như mười hai (3x4), bảy (3+4) là đơn vị thời gian cơ bản và thời gian là chiều kích của tinh thần và là thành phần chính yếu cần thiết cho sự thay đổi hay biến đổi. Vì vậy nó là biểu trưng cho năng lượng và sự vận động, đối lập với vật chấtvật liệu; hay nói rộng hơn, đây là kết hợp thể của hình vuông (4 góc) của thực tại tĩnh và nguyên lý động của tam giác (3 góc), hệt như lửa làm chuyển hoá các nguyên tố khác (giống như Ngọc châu trong đoá sen – Om Mani Padme hum – là vũ trụ chứa đựng pháp / dharma đoạn trừ ảo ảnh Màya để chuyển thành Niết bàn – HNT). Số bảy thường là bước/ chặng cuối cùng trước khi hoàn thành, từ không đến vô tận” (IV, 287-288). Những dữ liệu nêu trên ít nhiều đã cung cấp cho chúng ta những căn cứ để hiểu một khía cạnh của bảy bước đi sen nở.

2. Trong Kinh tạng, hoa sen với nhiều dạng thứ đặc dị xuất hiện khá nhiều, tích hợp thêm các tinh nghĩa phong phú. Kinh Đại bát nhã có nhắc đến “Thiên diệp liên hoa” (hoa sen nghìn cánh), luận Đại trí độ lại phân làm 3 loại hoa sen: Nhân hoa (hơn 10 cánh), Thiên hoa (100 cánh), Bồ tát hoa (1.000 cánh); lại nữa, trong kinh Đại thừa Bản Sinh Tâm Địa Quán đề cập đến các thần Phật ngồi trên hoa sen trăm cánh giảng bách pháp minh môn, ngồi trên sen ngàn cánh giảng thiên pháp minh môn, ngồi trên sen vạn cánh giảng vạn pháp minh môn cho các hạng Bồ tát. Còn đài sen mà Phật Lô Xá Na ngồi (kinh Phạm Võng), chung quanh có ngàn cánh thị hiện hàng ngàn Đức Thích Ca, ngồi dưới cội bồ đề, cùng lúc thành đạo…

Trong các dạng thức của hoa sen, chúng ta cần lưu ý đến dạng hoa sen phổ biến nhất là sen tám cánh (bát diệp) mà Phật ngồi ở chính giữa (trung toà) trong đồ hình gọi là Cửu tự mạn đà la. Ở đây, tám cánh hoa biểu thị không gian tám hướng và sen, như vậy, còn là biểu tượng cho sự hài hoà vũ trụ. Ý nghĩa này thể hiện trong các đồ hình Mạn đà la cũng như các Yantra. Tám hướng biểu thị cho tổng thể không gian. Tám ở đây là 4 phương chính và 4 phương bàng; giản lược lại, bốn phương chính cũng đủ để biểu thị cho tổng thể không gian. Đó là điều mà đoạn trích dẫn trong kinh Trường A Hàm nêu ở đầu bài viết đã chỉ rõ: Thái tử Sakyamuni Gautama, khi vừa sinh ra, đã đi 7 bước về mỗi phía trong bốn phương.

3. Ở chiều kích khác, số bảy biểu thị 6 hướng không gian cộng với 1 trung tâm. Một thần thoại Hindu giáo gắn cho Mặt trời 7 tia sáng, ứng với sáu hướng không gian, tia sáng thứ 7 ở trung tâm. Tương tự cầu vồng không có 7 sắc mà chỉ có 6: màu thứ 7 là màu trắng, tổng hợp của 6 màu kia. Cũng vậy, vũ trụ luận Ấn Độ cổ đại mà Phật giáo đã thừa kế cũng cho rằng trong lớp biển mặn Hàm hải, mỗi châu (lục địa: divìpa) nằm giữa 7 lớp núi vàng (luân vi) là một đại thiết vi. Lại nữa, ngọn núi trung tâm của vũ trụ luận Phật giáoTu Di sơn (Someru) có “thất bảo giai đạo”, hai đường giai đạo có 7 lớp tường báu, 7 lớp lan can, 7 lớp mành lưới, 7 lớp hàng cây… (III, 6913-6914). Điều này chỉ ra con số bảy là biểu thị cho một tổng thể không gian toàn hảo, một tối đa không còn gì hơn được về lượng lẫn chất.

Trở lại sự kiện “bảy bước về bốn hướng và dưới mỗi bước nở một đoá sen”, chúng ta thấy 7 là tổng số 6+1. Đây là biểu tượng cho sáu hướng không gian và một trung tâm (duy ngã độc tôn); 6 hướng ở đây là 4 phương (Đông Tây Nam Bắc) và hai hướng của trục vũ trụ thẳng đứng (thiên thượng: tay phải chỉ trời và thiên hạ: tay trái chỉ đất). Đó là toàn bộ vũ trụ, hiểu theo nghĩa: “Bốn phương trên dưới là vũ, xưa qua nay lại là trụ” [Đào Duy Anh: Hán Việt từ điển giản yếu, Trường Thi xb, S.1957, tr.567]. Như vậy, nói rộng hơn 6+1 biểu thị cho một tổng thể không gian và tổng thể thời gian. Ở đó, biểu lộ cái bí mật của con số 7: sự trở về với trung tâm, với bản nguyên với kết cục của bộ sáu, hoàn thành ở bộ bảy. Đến đây, chúng ta thấy rõ sự tương hợp giữa sự kiện “đi 7 bước sen nở” về 4 hướng và tư thế/ cử chỉ của Phật đản sinh tạo thành một biểu tượng tổng hợp đa nghĩa mà chúng ta còn phải tiếp tục truy tìm.

Huỳnh Ngọc Trảng

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15572)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 23021)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14049)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12976)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55103)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9163)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14440)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14161)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14201)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13880)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36313)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19873)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18163)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19208)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19139)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20280)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17635)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31524)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15934)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15016)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14679)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46171)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35934)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21047)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21595)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23393)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34377)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19483)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18944)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22940)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20182)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18363)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19839)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19526)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33409)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34476)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54515)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37719)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21130)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17875)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63640)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17379)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49655)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27433)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20275)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23027)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18890)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16323)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17911)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20934)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17361)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14467)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16862)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16369)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15994)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17465)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21977)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15099)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13503)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14363)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15385)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14983)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12696)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13348)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27396)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12512)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13187)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14484)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16233)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12401)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15415)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12866)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12196)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13197)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21643)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11277)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22722)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15082)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14945)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46179)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22447)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14572)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12618)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18900)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14729)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43854)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56969)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13834)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47482)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13651)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14572)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29007)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33308)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38376)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15397)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31228)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12525)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40387)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43414)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46660)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant