Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

7. Dừng Ngay Nơi Đây

18 Tháng Tư 201100:00(Xem: 11085)
7. Dừng Ngay Nơi Đây

Upasika Kee Nanayon (K.Khao-suan-luang)
ĐƠN GIẢNTHUẦN KHIẾT
Tổng Hợp Các Bài Giảng của Nữ Thiền Sư Thái Lan

Chương 3

Đi Ngược Dòng

Dừng Ngay Nơi Đây

 Nhờ quán niệm ta biết rằng sự phát khởi chánh niệm tỉnh giác là kết quả của một tiến trình diệt trừ nhiễm ô, phiền não. Bất cứ khi nào ta lơ là chánh niệm, chấp vào điều gì hay vật gì đó, thì quá trình tu tập để dần biết tâm sẽ giúp ta có thể nhận ra vấn đề này một cách dễ dàng. Nhờ đó ta kiềm chế được tâm, và khiến cuộc sống của mình được bao điều tốt đẹp khác nữa. Tuy nhiên, thế vẫn chưa đủ, vì nhiễm ô, phiền não là những vấn đề quan trọng bậc nhất được chôn sâu trong tâm tánh của ta. Vì thế chúng ta phải quán chiếu, xem xét mọi thứ bên trong ta.

 Hướng tâm ra ngoài là điều chúng ta đã quen làm: Bất cứ lúc nào ta hóng chuyện bên ngoài, tâm sẽ tán loạn thay vì trống vắng, an lạc. Tất cả chúng ta ai cũng biết điều này. Và đó là lý do tại sao chúng ta cần giữ tâm ở trạng thái bình thản hay an trụ. Sau đó chúng ta quán niệm về kinh nghiệm tu tập của mình: Tâm ta được duy trì trong trạng thái nào? Ta có giữ được chánh niệm xuyên suốt trong tất cả mọi hoạt động không? Chúng ta cần quán sát những điều này. Khi tâm đi chệch ra khỏi nền móng của nó do các tâm hành tác động, khiến tâm tán loạn như lệ thường, thì ta có thể làm gì để tâm được ổn định và yên tĩnh trở lại? Nếu tâm không yên tĩnh, thì nó không được gì ngoài phiền não: lang thang nghĩ suy, vọng tưởng, chấp vào đủ mọi thứ chuyện. Ðấy là phiền não. Ta phải tiếp tục quán sát những điều này, thấy rõ ràng chúng vô thường, khổ và vô ngã dưới nhiều hình thức.

 Nếu quán sát sự sinh và diệt bên trong ta, ta sẽ thấy rằng điều đó chẳng tốt chẳng xấu. Mà nó chỉ là một tiến trình tự nhiên của sinh, trụ và hoại diệt. Cố gắng quán sát sâu sắc điều này. Khi làm được điều này, ta sẽ quét tâm sạch sẽ, cũng như khi ta quét nhà thường xuyên: Nếu có rác rến gì, ta sẽ khám phá ra ngay. Vì thế, hãy quét sạch bất cứ điều gì sinh, trụ và hoại diệt trong từng giây phút. Hãy để mọi thứ qua đi, không dính mắc, không chấp vào thứ gì. Cố gắng làm cho tâm biết rõ ràng tình chất không chấp thủ này trong chính nó. Nếu tâm không dính mắc, không chấp vào bất cứ điều gì, thì không có chấn động trong tâm. Tâm rỗng không và an lạc.

 Trạng thái tỉnh thức này rất đáng biết, vì nó không đòi hỏi ta phải biết nhiều thứ khác. Ta chỉ cần quán niệm về tính chất vô thường của sắc, thọ, tưởng, hành, và thức. Hay ta có thể quán tưởng đến bất cứ điều gì đang ở trong tâm, lúc điều đó liên tục thay đổi -sinh và diệt- từng giây phút. Ðây là điều ta phải suy ngẫm cho đến khi thật sự biết rõ. Nếu không, ta sẽ bị kéo theo những mối bận tâm tùy theo cách ta đặt tên cho các xúc giác. Nếu ta không bị vướng vào các xúc giác phát khởi trong hiện tại, thì ta lại rơi vào ký ức của quá khứ hay vọng tưởng về tương lai. Ðây là lý do tại sao ta phải rèn luyện tâm an trụ vững chắc trong trung tính, không dính mắc vào bất cứ chuyện gì hết. Nếu ta có thể duy trì vị thế này liên tục, ta sẽ quét sạch được mọi thứ ra khỏi tâm, hủy diệt được khổ đau, phiền não ngay trong hiện tại trong từng và mỗi lúc.

 Tất cả mọi thứ sinh rồi diệt, sinh rồi diệt - tất cả. Ðừng bám giữ bất cứ gì, nghĩ rằng nó tốt hay xấu hay xem nó như là cái ngã của ta. Hãy dừng tất cả mọi nghĩ suy tán loạn và các tâm hành. Khi ta có thể duy trì trạng thái tỉnh thức này, tâm tự nó sẽ lắng đọng, và sẽ tự nhiên trở nên trống rỗng và tự do. Nếu có ý nghĩ nào khởi lên thì phải chắc rằng chúng chỉ đến rồi đi, đừng bám víu vào chúng. Khi ta có thể hiểu được các khía cạnh của tâm sinh diệt, thì không còn phải làm gì nhiều nữa. Chỉ cần tiếp tục quan sátbuông bỏ, rồi ta sẽ không còn những dòng suy tưởng miên man về quá khứ hay tương lai. Tất cả đều dừng ngay vào lúc sinh và diệt.

 Khi ta thật sự thấy hiện tại với những sự sinh và diệt của nó, thì không còn vấn đề gì lớn nữa. Khi ta suy nghĩ về chuyện gì, tất cả đều qua đi, nhưng nếu ta không nhìn thấy nó qua đi, ta sẽ bám vào bất cứ điều gì xảy ra kế tiếp, và rồi tất cả mọi sự trở nên tán loạn với những sự tưởng tượng không ngừng. Vì vậy ta phải chặt đứt các tâm hành liên kết đang tiếp tục trôi chảy như một dòng nước. Xác lập chánh niệm và một khi chánh niệm đã được xác lập, chỉ cần chú tâm trọn vẹn vào tâm. Rồi ta sẽ có thể dừng được dòng tâm hành đã khiến ta xao lãng. Hãy thực hiện điều này bất cứ lúc nào có thể, và tâm sẽ trở nên yên tĩnh, trống không, không vướng mắc, không chấp thủ. Sau đó tu tập quán sát đi, quán sát lại trạng thái tâm bình thường bất cứ khi nào nó bị chìm đắm và bắt đầu dệt ra những dòng tư tưởng lê thê. Ngay khi ý thức được điều này, hãy dừng chúng lại. Khi ta dừng chúng ngay đó, mọi thứ đều bị hủy diệt. Bất cứ vấn đề gì, diệt trừ nó ngay. Thực hành như thế này cho đến khi ta trở nên thành thạo, và tâm sẽ không còn bị xao lãng.

 Giống như lái xe hơi: khi muốn dừng lại, ta chỉ cần đạp mạnh thắng và ta dừng lại ngay. Tâm cũng giống như thế. Khi nào ta có chánh niệm, tâm dừng lại ngay và trở nên yên tĩnh. Nói cách khác, khi chánh niệm vững chắc, thì bất cứ việc gì xảy ra, ngay khi ta ý thức về nó với chánh niệm, tâm dừng lại, không vướng mắctự do. Ðây là một phương pháp đơn giản: dùng chánh niệm để dừng tâm lại. Các phương thức khác thì quá chậm để phản ứng. Phương thức tự quan sát bản thân, tự biết mình, rất đáng biết vì ai cũng có thể áp dụng nó vào bất cứ lúc nào. Như ngay lúc này khi tôi đang nói và các hành giả đang lắng nghe, chỉ cần tập trung chú ý ngay nơi tâm khi nó đang bình thường ngay giây phút hiện tại. Ðây là một phương cách tuyệt vời để biết tâm.

 Trước khi chúng ta biết chút gì về phương cách này, ta để tâm chạy đuổi theo bất cứ ý nghĩ nào phát khởi trong tâm, và khi nó vừa chấm dứt thì bắt ngay lấy ý nghĩ mới vừa phát sinh, rồi dệt ra bao mạng lưới để bẫy chúng ta vào đủ thứ rắc rối phiền toái. Dầu chúng tathực hành bất cứ phương pháp thiền nào cũng không thể thật sự dừng sự xao lãng của chúng ta. Vì vậy đừng xem thường phương pháp này là quá đơn giản. Hãy rèn luyện để có thể kiểm soát bất cứ đối tượng nào mà ta tiếp xúc hay bất cứ ý kiến nào xâm phạm sự tỉnh thức của ta. Khi tự áiý kiến nổi lên, hãy gào, "Dừng lại! Hãy để tôi nói trước đã!" Phương pháp ngưng chiến này thật sự có thể khiến nhiễm ô ngưng ngay tức khắc, ngay cả khi chúng giống như hai người đang ngắt lời lẫn nhau để giành nói, sự tự ái hay ngã mạn của một bên tức khắc phản đối trước khi phía bên kia nói xong. Hay ta có thể bảo nó giống như thình lình chạy đâm vào một con thú nguy hiểm -cọp hay rắn độc- mà không có cách gì để thoát được. Ta chỉ còn có một cách để làm là dừng lại, hoàn toàn đứng yên, và rải tâm từ .

 Ở đây cũng thế. Ta chỉ cần dừng lại, và điều đó chặt đứt sức mạnh của nhiễm ô hay bất cứ cảm giác về ngã nào đột nhiên xuất hiện. Chúng ta phải chặn uế nhiễm ngay tại chỗ, nếu không, chúng sẽ trở nên mạnh mẽ và tiếp tục tăng trưởng. Như thế, chúng ta phải chặn chúng lại ngay từ đầu. Chống cự lại chúng ngay từ đầu. Bằng cách này chánh niệm của ta sẽ trở nên quen đương đầu với chúng. Ngay khi ta bảo, "Dừng lại!" mọi thứ dừng lại ngay. Nhiễm ô sẽ trở nên phục tùng và không còn dám đẩy ta đi quanh quẩn dưới bất cứ hình thức nào.

 Nếu ta sẽ ngồi thiền trong một giờ, phải chắc chắn rằng ta giữ chánh niệm ngay tâm suốt thời gian đó. Không nên chỉ nhắm đến thụ hưởng sự yên tĩnh. Hãy ngồi và quán sát những cảm giác trong tâm để xem tâm tập trung như thế nào. Ðừng bận tâm đến bất cứ ái dục hay cảm xúc nào trỗi dậy. Dầu cho đau nhức xảy ra, dưới bất cứ hình thức nào, đừng để ý đến. Tiếp tục lưu ý đến tình trạng an định bình thường của tâm. Tâm sẽ không đi lạc chạy theo khoái lạc hay đau đớn, nhưng sẽ buông bỏ hết, xem đau đớn như là vấn đề của các uẩn, vì chúng vô thường. Thọ là vô thường. Thân là vô thường. Chúng phải là như vậy.

 Khi một lạc thọ khởi lên, tâm tham ái muốn thọ lạc ấy và muốn duy trì cảm giác đó càng lâu càng tốt. Nhưng khi cái đau phát sinh, tâm lại phản ứng hoàn toàn trái ngược, vì cái đau làm tổn thương. Khi thân đau xảy ra vì chúng ta ngồi lâu, tâm bị kích động vì tham dục thúc đẩy đòi thay đổi. Nó muốn chúng ta điều chỉnh, thay đổi hoàn cảnh khổ bằng cách này hay cách khác. Tuy nhiên, chúng ta phải tu tập để diệt trừ tham ái đó. Nếu cái đau nơi thân trở nên dữ dội, chúng ta phải tu tập để giữ bình thản, để ý thức rằng đây là cái đau của các uẩn -không phải là cái đau của ta- cho đến khi tâm không còn kích động nữa và có thể trở lại trạng thái tâm xả bình thường.

 Ngay nếu như xả thọ chưa được trọn vẹn cũng đừng lo ngại. Chỉ cần chắc chắn rằng tâm không giằng co muốn thay đổi hoàn cảnh. Tiếp tục diệt trừ sự giằng co, sự tham ái. Nếu cái đau trở nên quá sức chịu đựng khiến ta phải thay đổi tư thế, đừng thay đổi khi tâm đang còn trong trạng thái bị kích động. Tiếp tục ngồi yên như thế, xem cái đau tiến triển đến mức nào và chỉ thay đổi tư thế ở thời điểm thích hợp. Khi duỗi chân ra, vẫn giữ tâm an trụ, vẫn xả. Giữ tư thế này trong chừng năm phút, thì cái đau dữ dội sẽ qua đi. Nhưng hãy coi chừng. Khi thọ lạc thay thế thọ khổ, tâm sẽ rất thích điều đó. Vì vậy, ta phải chánh niệm để giữ tâm trung tính và xả.

 Hãy thực hành điều này trong mọi hoạt động của ta, vì tâm có khuynh hướng chìm đắm vào các lạc thọ. Vì thế, ta phải giữ chánh niệm thiết lập vững chắc, biết rõ tính chất thật sự của các cảm thọ: vô thườngkhổ não, không có chút khoái lạc thật sự nào trong đó hết. Quán niệm lạc thọ để thấy chúng chỉ là khổ. Ta phải luôn tu tập như thế. Ðừng say đắm các lạc thọ, nếu không, ta sẽ còn đau khổ, phiền não nhiều hơn, vì ái dục không muốn gì ngoài khoái lạc, mà các uẫn chỉ có thể mang đến khổ đau. Tất cả các uẫn, sinh lý hay tâm lý, đều là khổ. Nếu tâm có thể vượt lên trên lạc, lên trên khổ, lên trên thọ, chính ngay đó nó được giải thoát. Xin hiểu điều này. Ðó là sự giải thoát khỏi thọ. Nếu tâm còn chưa đạt được giải thoát khỏi thọ, nếu nó vẫn còn muốn khoái lạc, vẫn còn chấp vào lạc và khổ, thì hãy cố gắng quán sát trạng thái tâm ở những lúc tâm trung tính đối với thọ. Ðiều đó sẽ có thể giúp tâm thoát khỏi khổ đau, phiền não.

 Vì vậy chúng ta phải thực hành nhiều với các khổ thọ nơi thân, đồng thời cố gắng hiểu cả lạc thọ nữa, vì các lạc thọ liên quan đến các nhiễm ô vi tế của đam mêtham ái là những điều chúng ta chưa thật sự hiểu được. Ta cứ nghĩ chúng là những lạc thọ chân chánh, nên ta rất muốn được có. Đó là ái dục và Ðức Phật đã khuyên ta nên dứt bỏ ái dụcđam mê đối với danh và sắc. "Đam mê" ở đây nghĩa là chỉ muốn có khoái lạc để rồi vướng mắc vào cái yêu, ghét đối với những gì xảy ra tiếp theo đó. Có nghĩa là chúng ta bị vướng mắc trong những hương vị tuyệt trần của các cảm thọ, dầu đó là các thọ nơi thân hay thọ nơi tâm.

 Chúng ta nên ý thức rằng khi một cảm thọ khổ nơi thân trở nên quá mãnh liệt, chúng ta có thể đương đầu với nó bằng cách sử dụng chánh niệm để giữ tâm không tán loạn. Được thế rồi thì dầu thân có đau đớn cùng cực, ta vẫn có thể buông xả. Dầu thân có bị kích động, tâm vẫn không bị kích động theo. Nhưng để làm được điều này, trước hết ta phải rèn luyện để tách rời cảm giác khỏi tâm trong khi ta còn mạnh khỏe.

 Đối với những cảm giác đi kèm theo tham ái, nếu chúng ta cứ tích lũy chúng, chúng sẽ khiến ta thêm đau khổ. Đừng xem chúng là dễ chịu hay thoải mái, vì đấy là ảo giác. Ta phải quán sát để thấy các thọ -bất kể là loại gì- tất cả đều là vô thường, khổ và vô ngã. Nếu ta có thể buông bỏ được thọ, ta sẽ trở nên nhàm chán với những sắc, thọ, tưởng, hành và thức, chất chứa các lạc thọ. Nhưng nếu ta không quán niệm những điều này, ta sẽ vẫn đắm chìm trong đó.

 Vì vậy cố gắng để ý khi tâm ở trong tình trạng say đắm này. Tâm có rỗng không và an lạc không? Nếu tâm chấp thủ, ta sẽ thấy nó dơ bẩn và bị nhiễm ô bởi vì tâm mê đắm trong sự bám víu. Ngay khi bị đau, nó đã bực bội. Nếu tâm chấp vào ba cảm thọ -lạc, khổ, hay trung tính (không khổ, không lạc)- nó phải chịu đựng khổ đau, phiền não. Chúng ta phải thấy sự vô thường, khổ, và vô ngã của thân và tâm để không bám víu. Chúng ta không bám víu dầu nhìn ra ngoài hay trở vào bên trong. Chúng ta sẽ rỗng không - rỗng không là vì không còn bám víu. Chúng ta sẽ biết tâm không còn khổ vì phiền não. Càng nhìn sâu vào bên trong, chúng ta càng thấy tâm quả thật không còn chấp thủ.

 Ðây là phương cách giúp ta thoát được khổ đau, phiền não. Một phương cách đơn giản nhất để được giải thoát, nhưng nếu chúng ta không thật sự hiểu, thì nó lại là cách khó nhất. Do đó điều cực kỳ quan trọng là ta phải thực hành buông bỏ. Ngay giây phút tâm bám vào bất cứ cái gì, ta có thể thực sự khiến tâm buông bỏ. Và rồi lưu ý rằng khi ta bảo tâm buông, nó buông. Khi ta bảo nó dừng, nó dừng. Khi ta bảo nó rỗng không, nó thật sự rỗng không.

 Phương pháp quán sát tâm này hết sức hữu ích, nhưng chúng ta rất hiếm khi muốn trở nên thiện xảo, hiểu biết trong việc diệt khổ cho bản thân. Chúng ta tu tập một cách an nhàn, chểnh mảng, không biết cần sửa đổi điểm nào, cần trừ diệt phiền não ở đâu, phải nên buông bỏ cái gì. Và vì thế chúng ta cứ quanh quẩn trong đau khổchấp thủ.

 Chúng ta cần tìm cơ hội diệt khổ trong từng giây phút. Chúng ta không thể chỉ sống, ăn ngủ thoải mái. Chúng ta cần phải tìm cách để quan sátquán niệm tất cả mọi sự, sử dụng tâm chánh niệm tỉnh giác để thấy chúng không có "ngã". Chỉ lúc đó chúng ta mới có thể giảm bớt chấp thủ. Nếu chúng ta không hiểu biết với tâm chánh niệm tỉnh giác thật sự, thì việc tu tập của chúng ta sẽ không thể đưa chúng ta ra khỏi khổ đau, phiền não.

 Mọi nhiễm ô được liệt kê trong danh sách mười sáu nhiễm ô khó bỏ cho được. Tuy nhiên, không phải tất cả mười sáu cái đều khởi lên cùng một lúc, mà mỗi lúc chỉ một cái. Nếu ta biết đặc điểm khởi sinh của chúng, ta có thể buông bỏ chúng. Vì thế, bước đầu tiên là phải nhận diện được bộ mặt của chúng cho rõ ràng, vì ta phải biết rằng mỗi khi phát sinh, chúng nóng rực. Nếu chúng khiến ta buồn hay bực bội, thì dễ biết chúng. Nếu chúng khiến ta vui sướng, thì ta khó khám phá ra chúng hơn. Vì thế trước hết ta phải rèn luyện để nhận ra tâm ở trạng thái bình thường, giữ lời nói và hành động của ta cũng ở trạng thái bình thường. "Bình thường" ở đây có nghĩa là không ưa, không ghét. Ðó là vấn đề đạo đức trong sạch cũng như khi ta tu tập chế ngự các căn. Trạng thái bình thường là nền tảng cơ bản. Nếu tâm khôngtrạng thái bình thường nếu nó thích cái này hay ghét cái kia có nghĩa là sự kiềm chế các căn của ta chưa được thuần khiết. Ví dụ, khi mắt ta thấy một hình sắc hay tai nghe một âm thanh, ta sẽ không cảm thấy bực bội nếu như không có cái đau nào thực sự phát sinh, nhưng nếu ta lơ đãng, không chú tâm thì khi cái đau càng lúc càng tăng, giới hạnh của ta sẽ bị ảnh hưởng, và cuối cùng ta sẽ bị kích động dữ dội.

 Vì thế đừng xem thường ngay cả những thứ nhỏ nhặt nhất. Hãy dùng chánh niệm tỉnh giác để phá vỡ, diệt trừ nhiễm ô, và tiếp tục công việc quán sát. Rồi nếu như có biến cố nghiêm trọng nào xảy ra, ta vẫn có thể buông bỏ được. Nếu ta có chấp thủ nặng nề, ta vẫn có thể xả bỏ. Nếu có nhiều phiền não, ta vẫn có thể làm chúng giảm bớt.

 Ðiều này cũng đúng đối với các uế nhiễm ở bậc trung: Năm Triền Cái. Bất cứ sự ham thích nào về sắc, thanh, hương, vị và xúc là dục tham triền cái. Nếu ta không thích cái ta thấy, nghe, vân vân, thì đó là sân triền cái. Các triền cái ưa, ghét này làm tâm bị phiền não, khiến nó xao độngtán loạn, không thể trở nên yên tĩnh được. Hãy cố gắng quan sát tâm khi tâm bị năm triền cái chế ngự để xem thử tâm có ở trong trạng thái đau khổ hay không. Ta có nhận ra các uế nhiễm bậc trung này không khi chúng xâm lấn tâm ta?

 Dục tham triền cái giống như thuốc nhuộm màu làm vẩn đục nước trong, khiến nước đục ngầu và khi tâm mờ đục, nó khổ đau. Sân triền cái là sự cáu kỉnh và không bằng lòng, hôn trầmthụy miên triền cáitrạng thái buồn ngủ, hôn trầm -một trạng thái không muốn đối phó với bất cứ chuyện gì, chỉ vùi đầu vào trong giấc ngủ với sự quên lãng rã rượi. Tất cả các triền cái, kể cả cặp cuối cùng -trạo hối và hoài nghi- bao phủ tâm trong bóng tối. Ðây là lý do tại sao ta phải kiên cường đánh đuổi chúng đi, và truy nguyên chúng để ta có thể làm suy yếuloại bỏ tất cả mọi uế nhiễm, từ cái thô đến cái vừa vừa, rồi đến cái vi tế.

 Việc hành Pháp là một trách vụ rất tinh tế, đòi hỏi ta phải dùng tất cả chánh niệm tỉnh giác của bản thân để quán sát, tìm hiểu thân tâm. Khi quán thân, cố gắng thấy được chân lý vì sao thân vô thường, đau khổ và không gì hơn là các yếu tố vật chất. Nếu ta không quán niệm như thế, thì sự tu tập của ta chỉ là dò dẫm loanh quanh, sẽ không thể giúp ta thoát khổ đau, phiền não - vì những khổ đau do nhiễm ô tạo dựng trong tâm nhiều hơn ta tưởng. Tâm có đủ bao mánh khóe. Đôi khi ta có thể đạt được đôi chút hiểu biết sâu sắc nhờ chánh niệm tỉnh giác -trở nên sáng suốt, trống không, và an lạc- để rồi nhiễm ô len lỏi vào phá hỏng mọi thứ, và một lần nữa lại bao phủ tâm trong bóng tối dày đặc.

 Mỗi người chúng ta phải tìm chiến thuật đặc biệt để tự hiểu mình hầu khỏi phải chìm vào trong xao lãng. Tham dụcxao lãng là những kẻ gây lắm rắc rối. Hôn trầmthụy miên - tất cả các triền cái - đều là những kẻ thù cản bước đường của ta. Việc ta chưa thấy thông suốt được điều gì vì các tên này đang ngăn đường, chặn lối để bao vây ta. Ta phải tìm cách tiêu diệt chúng bằng cách sử dụng sự chú ý thích đáng –nói cách khác, đó là một phương cách sử dụng tâm một cách thiện xảo. Ta phải đào sâu, truy nguyên, quán chiếu xem mọi thứ phát sinh ra như thế nào, biến mất như thế nào, và vô thường, khổ, và vô ngã thật sự là gì. Ðây là những câu hỏi mà ta cứ phải tiếp tục tự vấn để tâm có thể thật sự biết. Khi ta thực sự biết vô thường, chắc chắn là ta sẽ buông bỏ nhiễm ô, tham dụcchấp thủ, hay ít nhất cũng có thể làm chúng suy yếu, giảm bớt. Cũng giống như có một cây chổi trong tay. Bất cứ khi nào chấp thủ phát sinh, ta quét nó ra xa cho đến khi tâm không còn có thể bám vào bất cứ cái gì, vì không còn gì sót lại để nó bám vào. Ta đã thấy mọi thứ đều biến đổi, thì còn có gì để bám vào?

 Khi ta kiên trì trong việc quán niệm về vô thường, khổ và vô ngã, tâm sẽ được thoải mái vì ta đã buông lơ việc chấp thủ. Ðây chính là sự kỳ diệu của Pháp: thân và tâm thoải mái, hoàn toàn không vướng mắc vào các nhiễm ô. Thật tuyệt vời. Trước đây, do vô minh tâm ta u mê, lang thang khắp nơi, đắm say theo hình sắc, âm thanh, vân vân. Vì thế, uế nhiễm, tham ái, và chấp thủ khống chế ta. Nhưng giờ đây, chánh niệm tỉnh giác đã phá tan sự mê mờ nhờ thấy được việc không có ngã trong các sự vật này, chẳng có gì là thật về chúng cả. Chúng chỉ sinh và diệt trong từng phút giây. Chẳng có một chút gì là "tôi" hay "của tôi" trong chúng hết. Một khi chúng ta thật sự biết với chánh niệm tỉnh giác, là chúng ta quét sạch mọi thứ, ngoại trừ chân Pháp hoàn toàn không còn chút cảm giác nào về ngã. Chúng ta chỉ thấy có vô thường, khổ, và vô ngã, không có khoái lạc hay đau đớn.

 Ðức Phật dạy, "Sabbe dhamma anatta – Các pháp đều vô ngã". Cả hai pháp hữu vivô vi -như Niết bàn siêu việt - đều vô ngã. Chỉ có Pháp. Ðiều này rất quan trọng. Không có cảm giác của ngã ở đó, nhưng ở đó có Pháp. Ðây không phải là sự tiêu diệttà kiến của chủ thuyết tận diệt đã thuyết; trái lại, đây chỉ là sự hủy diệt mọi chấp thủ vào "cái tôi" và "cái của tôi". Tất cả những gì còn lại là sự bất tử -Pháp bất diệt, tính chất bất tử -không còn sinh, già, bệnh, và chết. Mọi thứ vẫn còn như trước đó, nó vẫn chưa bị mất đi đâu hết; những thứ duy nhất tiêu diệt đi là các uế nhiễm cùng với bao khổ đau, phiền não. Đó được gọi là –sự rỗng không (sunno) vì nó không còn mang cái nhãn ngã. Sự bất tử này là điều kỳ diệu thật sự đã được Đức Phật khám phá ra và truyền dạy để thức tỉnh chúng ta.

 Ðây là lý do tại sao việc quán niệm sâu xa vào tính chất vô thường, khổ, và vô ngã của ngũ uẫn không uổng phí chút nào, vì cái còn lại là Pháp tự nhiên không sanh, già, bệnh, và chết. Nó được gọi là cái không bị trói buộc, cái rỗng không, cái vô vi: Những tên gọi này chỉ cùng một thứ. Chúng chỉ là những tên gọi theo thông lệ mà ta rồi cũng phải tập xả bỏ đi để ta có thể trụ vào khía cạnh tâm trống vắng các cảm giác về ngã.

 Như thế những đạo, quả và Niết bàn không phải là điều ta có thể trông mong trong một đời sống tương lai bằng cách phát triển vô số thiện nghiệp. Một số người thường thích nêu lên rằng Ðức Phật đã phải tích lũy biết bao nhiêu phẩm hạnh -nhưng còn ta thì sao? Thử xét xem bao nhiêu kiếp đã trôi qua mà ta vẫn còn chưa đạt được mục tiêu, tất cả chỉ vì sự u mê của ta trong việc tiếp tục tìm cách bào chữa cho mình.

 Những nguyên tắc căn bản mà Ðức Phật đã dạy -như Tứ Niệm Xứ, Tứ Diệu Ðế, ba đặc tính của vô thường, khổ và vô ngã - nằm ngay tại đây bên trong ta, vì thế hãy tiếp tục quán chiếu cho đến khi ta biết rõ chúng. Uế nhiễm, tham áichấp thủ cũng là ngay tại đây bên trong ta, vì vậy hãy quán niệm chúng cho đến khi ta đạt được sự hiểu biết chân chính. Rồi ta có thể buông chúng, không còn bám vào chúng như là "tôi" hay "của tôi". Bằng cách này ta sẽ được giải thoát khỏi đau khổưu phiền bên trong ta.

 Ðừng tiếp tục tự bào chữa bằng cách dựa vào, ví dụ như, những sức mạnh siêu phàm của một đối tượng nào đó hay bằng cách chờ đợi sự tích lũy các thiện nghiệp. Ðừng nghĩ theo cách đó. Trái lại nên quán các uế nhiễm là như thế nào ngay tại đây và bây giờ: Tiêu trừ chúng hay chạy theo chúng, cái nào tốt hơn? Nếu chạy theo chúng, ta có bị khổ đau, phiền não không? Ta phải tìm ra chân lý bên trong ta để loại bỏ sự vô minhmê lầm trong việc nghĩ rằng cái thân xác khổ đau này là chân hạnh phúc.

 Chúng ta ai cũng mắc vào sự mê lầm này vì chúng ta không chịu mở mắt ra. Ðó là lý do tại sao chúng ta cứ phải tiếp tục thảo luận những vấn đề này, rồi khuyên nhủ, tìm kiếm chân lý để ta có thể nẩy sanh chánh niệm tỉnh giác, hầu có thể giúp ta biết mình. Việc chúng ta đã bắt đầu nhận biết sự vật, thừa nhậnnhiễm ôphiền não bên trong ta, trong một mức độ nào đó, là điều rất tốt. Nhưng tốt hơn nữa là chúng ta thảo luận về những điều này, về làm sao để quán thân, thọ, tâm và pháp để diệt trừ khổ đau, phiền não. Nhờ thế chúng ta có thể làm vơi bớt khổ đau bằng cách buông bỏ các nhiễm ô khiến tâm tán loạn, khô héo. Chánh niệm tỉnh giác của chúng ta sẽ có thể dần dần loại bỏ đi các uế nhiễm và tham dục ra khỏi tâm.

 Sự tu tập của chúng ta, nếu chúng ta thật sự cố gắng sẽ giúp giảm bớt nhiều khổ đau cho chúng ta. Việc này sẽ kéo người khác theo gương ta. Chúng ta không cần quảng cáo, vì họ sẽ phải nhận biết. Chúng ta không cần khoe khoang về giai đoạn tu đã đạt đến hay đã tu chứng đến đâu. Ở đây chúng ta không có những điều như thế, mà chúng ta chỉ luận về khổ đau, phiền não, các uế nhiễm và vô ngã. Nếu chúng ta biết với chánh niệm tỉnh giác chân chánh, chúng ta sẽ trừ diệt được các uế nhiễm, tham áichấp thủ, và kết qủa tốt sẽ có mặt ngay bên trong ta.

 Vì thế, giờ chúng ta có cơ hội này, chúng ta nên nỗ lực một cách có tính toán để được tiến bộ. Ðừng để đời ta trôi qua dưới sự chi phối của các nhiễm ô, tham ái, và chấp thủ. Hãy cố gắng tu sửa mình trong lãnh vực này hằng ngày, hằng phút giây, và chắc chắn là ta sẽ tiến bộ trong việc tu tập diệt trừ các uế nhiễm, và khổ đau, phiền não. Việc trừ bỏ các uế nhiễm hay buông bỏ cảm giác về ngã rất quan trọng vì nó mang lại cho ta những phần thưởng - an lạc, tự tại trong từng giây phút - ngay tại đây trong tim ta. Việc tu tập, do đó là điều rất đáng quan tâm. Nếu ta không quan tâm đến việc tu tập để tìm radiệt trừ các căn bệnh của uế nhiễm, của những khổ đau, phiền não của chính bản thân, thì ta sẽ mãi vướng vào khổ đau triền miên giống như tất cả những kẻ ngu khác.

 Khi Ma vương -sự cám dỗ- cố gắng ngăn chặn những nỗ lực của Ðức Phật bằng cách bảo rằng trong vòng bảy ngày nữa Ðức Phật sẽ trở thành vị chúa tể của toàn cầu, Ðức Phật trả lời, "Ta biết rồi! Ðừng cố gắng dối gạt hay cám dỗ ta". Vì Ðức Phật có khả năng tự biết những chuyện như thế ngay, nên Ma Vương liên tục bị đánh bại. Nhưng còn ta thì sao? Chúng tađệ tử Phật hay đồ đệ của Ma vương? Bất cứ khi nào cám dỗ khởi lên –ta lập tức nghe theo nó không chút mỏi mệt, không chút chán chường. Nếu chúng ta thực sự là đệ tử Phật, chúng ta phải đi ngược lại với dòng chảy của các uế nhiễm, tham dục, và chấp thủ, củng cố những đức tính tốt -bắt đầu với giới hạnh là nguyên tắc lý tưởng để bảo vệ chúng ta. Rồi chúng tathể đạt đến giải thoát khỏi đau khổ nhờ tu tập đi từ phạm vi giới luật, phát triển định tâm và rồi sử dụng trí tuệ để thấy vô thường, khổ, và vô ngã. Ðây là mức cao của trí tuệ: trí tuệ sâu sắc về vô ngã.

 Nói chung, điều quan trọng là ta đừng tin theo các nhiễm ô. Dầu ta vẫn còn cái gốc của vô minh hay tham dục trong tâm, nhưng hãy luôn sử dụng chánh niệm tỉnh giác làm phương tiện để biết, để buông xả, và tẩy sạch mọi thứ. Khi các gốc rễ này đến cám dỗ, ta chỉ cần dừng lại. Buông bỏ. Từ khước đi theo chúng. Nếu ta tin theo khi chúng bảo ta bám víu vào sự vật, ta sẽ tiếp tục bị kích động và bị thiêu đốt vì ái dục. Nhưng nếu ta không đi theo chúng, các dục vọng trong tâm sẽ dần dà lơi bớt, giảm dần, và cuối cùng chấm dứt.

 Vì thế, khi rèn luyện tâm ta phải xem tham dục như là một chiến trường, cũng giống như khi ta đối phó với một sự nghiện ngập: Nếu ta không kiên quyết đánh bại nó, thì không cách gì ta thoát khỏi làm nô lệ cho nó nữa. Chúng ta phải dùng chánh niệm như một cái khiên bảo vệtỉnh giác như ngọn dáo để chặt đứt và tiêu diệt tham dục. Làm được vậy, thì sự tu tập của chúng ta sẽ tiến triển vững chải, giúp ta đối mặt với uế nhiễm, tham dụcchấp thủ ngày càng dũng mãnh hơn.

 Nếu, trong việc tu tập, ta có thể biết và giải mã được tâm, thì ta sẽ tìm ra con đường giải thoát, theo bước chân của các bậc Thánh. Nhưng chừng nào ta còn không biết, ta sẽ nghĩ rằng chẳng có đạo, chẳng có quả, chẳng có Niết bàn. Chỉ khi nào ta có thể diệt trừ các nhiễm ô ta mới biết. Ta phải thực sự có khả năng diệt trừ chúng để tự mình biết được đạo, quả, và Niết bàn thực sự hiện hữu và thực sự có thể tiêu diệt đau khổ, phiền não. Không giới hạn thời gian. Bất cứ thời gian hay mùa nào, một khi ta có chánh niệm để dừng lại và buông bỏ, thì không còn đau khổ. Khi chúng ta lặp đi lặp lại điều này, ngày càng thường xuyên hơn, thì uế nhiễm ngày càng yếu đi. Ðây là lý do tại sao nó là ehipassiko -một điều gì đó mà ta có thể mời người khác “đến để thấy” -vì tất cả những ai thực hành như thế đều có thể tiêu trừ uế nhiễm và khổ. Nếu họ quán niệm cho đến khi họ thấy vô thường, khổ và vô ngã, họ sẽ không còn chấp thủ nữa và tâm họ sẽ trở thành Pháp, trở thành giải thoát.

 Không cần phải phấn khích lên vì bất cứ ai đó ở bên ngoài – dầu là thần linh hay bất cứ gì - vì sự thành công của việc tu tập nằm ngay đây trong tim ta. Hãy nhìn vào trong cho đến khi ta thấu suốt rõ ràng, hãy quét sạch tất cả mọi chấp thủ, và rồi ta sẽ đạt được ehipassiko này trong ta. "Hãy đến để thấy! Hãy đến để thấy!" Nhưng nếu còn có phiền não, thì nó là "Hãy đến để thấy! Hãy đến để thấy phiền não thiêu đốt tôi!" Ta biết câu này áp dụng cho cả hai trường hợp. Nếu ta tiêu trừ các uế nhiễm, buông bỏ và dừng lại được, thì nó là "Hãy đến để các uế nhiễm đã biến mất như thế nào, thấy tâm trống rỗng như thế nào ngay đây và ngay bây giờ!" Ðây là điều ai cũng có thể biết được, là điều ta có thể tự mình biết rõ tường tận không chút khó khăn.

 Quay nhìn vào trong tâm không đến nỗi quá khó. Ta không cần đi đâu xa để thực hiện điều này. Ta có thể quan sát tâm mọi lúc, trong bất cứ tư thế nào. Những điều chân thật và ngụy tạo, tất cả đều nằm bên trong ta, nhưng nếu ta không tự quán chiếu nội tâm, thì ta sẽ không hiểu chúng –vì ta mãi mất thì giờ tìm hiểu thế giới bên ngoài, những chuyện thế gian mà người thế gian thường quan tâm đến. Nếu ta muốn học Pháp, ta phải quay trở vào bên trong, quán sát ngay nơi thân, thọ, tâm, và pháp, cho đến khi ta hiểu chân lý là thân không phải là ta hay của ta: nó vô thường, khổ, và vô ngã. Thọ cũng là vô thường, khổ, và vô ngã. Tâm cũng là vô thường, khổ, và vô ngã. Rồi nhìn vào Pháp: chúng cũng vô thườngđau khổ. Chúng sinh, trụ, và rồi hoại diệt. Nếu ta không bám víu và không còn bất cứ cảm giác nào về ngã ngay tại các tâm hành, tâm ta sẽ được giải thoát.

 Nếu ta hiểu đúng, tâm thật sự rất dễ đối phó. Nếu ta không hiểu đúng, thì hoàn tòan trái ngược lại. Giống như bấm công tắc đèn: nếu ta bấm vào nút Mở, đèn tức khắc sáng lên. Với nút Tắt, nó tức khắc tối lại. Ðối với tâm cũng thế. Nếu cái biết của ta sai lầm, tâm đen tối. Nếu nó đúng, tâm sáng rỡ. Sau đó thử nhìn xem có gì đáng để ta bám víu không. Nếu ta quán sát kỹ, ta sẽ thấy là không có gì đáng để bám víu, vì tất cả những gì ta có thể bám vào đều khổ đau, phiền não - những vấn đề của vô minh, của ức đoán, mơ mộng, quan điểm, ta, người, chuyện phiếm, những thông tin vô tận. Nhưng nếu ta chú tâm quán sát bên trong tâm, không có gì cả, không có gì ngoại trừ buông xả để được trống rỗng, giải thoát. Ðây là nơi Pháp có thể dễ dàng sanh khởi, cũng dễ dàng như uế nhiễm đã xảy ra ở bờ bên kia, đơn giản chỉ vì là ta bây giờ đang nhìn mọi sự dưới một góc cạnh khác và ta có sự chọn lựa: Ta muốn ở trong tăm tối hay trong ánh sáng? Ta nên dừng lại hay cứ tiếp tục chạy rong? Ta nên giải tỏa hay dính mắc? Tất cả tùy ta quyết định.

 Pháp rất huyền diệulạ kỳ. Nếu ta khởi đầu với chánh kiến, ta có thể hiểu biết mọi sự thông suốt. Nếu vướng mắc ở một điểm nào đó, ta có thể quan sátquán niệm để tìm ra nguồn gốc là ở đâu. Hãy cứ quán niệm mãi, rồi mọi sự sẽ sáng tỏ.

 Chúng ta đã thành thạo trong việc chạy theo cái biết của uế nhiễm và tham ái, ngược lại, giờ ta phải theo cái biết của chánh niệm tỉnh giác. Hãy tiếp tục truy nguyên các uế nhiễm. Ðừng phục tùng chúng một cách dễ dàng. Ta phải chống lại quyền lực của chúng và từ chối chạy theo chúng. Ðấy chính là lúc ta thật sự đi đến chỗ hiểu biết. Khi ta thật sự biết, mọi sự sẽ dừng lại. Tham dục không còn, vọng tưởng cũng hết. Những thương, những ghét – cái trí này quét sạch mọi thứ. Nhưng nếu ta không có trí, ta tiếp tục chất chứa mọi thứ cho đến khi ta hoàn toàn bị lôi cuốn, sắp đặt cái này, chỉnh sửa cái kia, muốn điều này, ghét điều nọ, để cho ngã tưởng ngóc cái đầu xấu xí của nó dậy.

Hãy suy nghĩ như thế này: Ta là một rạp hát lớn đang trình diễn một vở kịch như ngoài đời mà nhân vật anh hùng, nữ nhân, và gian tặc -những giả định thông thường- tất cả đều nằm bên trong ta. Nếu ta tước bỏ đi mọi giả định và danh xưng thông thường, ta chỉ còn lại có Pháp: tự do, trống rỗng. Chỉ việc trống rỗng và không còn bất cứ ngã tưởng nào nữa cũng đủ kết thúc cả vở kịch.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31636)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10521)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11217)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12741)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10803)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16646)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10808)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22959)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12017)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11487)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10679)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12331)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11188)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10003)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10326)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11904)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10695)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12369)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9800)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11256)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13835)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9576)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12621)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9694)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10451)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10548)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10319)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9897)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11048)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12003)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10139)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10784)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9540)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9895)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8766)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9494)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14517)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8775)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12547)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10412)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9080)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10554)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9331)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8786)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10506)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9187)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8353)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12015)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9693)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10212)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10225)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19127)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9404)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8974)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9584)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9015)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14736)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10079)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8347)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8947)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8972)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8735)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9366)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14590)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9032)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8759)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9032)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10525)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8636)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9987)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24273)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10162)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11014)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8993)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9466)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8000)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9260)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15347)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10336)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9566)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17434)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21387)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12157)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10230)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19233)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26033)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7972)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14767)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10624)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11347)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9530)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18665)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12344)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11874)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10738)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13336)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9977)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9264)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9367)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15884)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant