Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

5. Thấy biết đúng như thật

23 Tháng Tư 201100:00(Xem: 9717)
5. Thấy biết đúng như thật

CỬA THIỀN HÉ MỞ
Thượng Toạ Thích Thông Phương

THẤY BIẾT ĐÚNG NHƯ THẬT

I. KIỂM LẠI THẤY BIẾT CỦA CHÚNG TA HIỆN TẠI LÀ THẾ NÀO?

Sống trên đời này, ai cũng đều có chỗ thấy biết, đó là một điểm không thể chối cãi. Và lâu nay chúng ta ai cũng như ai thường tự hài lòng với chỗ “thấy biết của ta”, nhưng chín chắn kiểm điểm lại xem, cái gọi là THẤY BIẾT CỦA TA có thật đúng chưa? Thế mà chúng ta thường hay đi phê bình người này, chỉ trích người nọ là sao? Khi đi phê bình, chỉ trích mọi người tức trong đó ngầm nói lên điều gì? Rõ ràng ngầm nói lên chỗ thấy của ta là hay hơn hết. Ta thấy là đúng đắn, chính xác nên ta thấy được chỗ dở của người, chỗ thấy của người hẳn còn kém thua ta nên ta đi phê bình để nêu cao chỗ thấy của ta cho tất cả biết. Bấy nhiêu đó, đủ thấy cái THẤY BIẾT CỦA TA là như thế nào rồi, khỏi phải nói thêm nhiều lời!

Song, đặt câu hỏi lại: chỗ thấy biết của ta có được bao nhiêu đối trong vũ trụ này? Quả là rất còn hạn hẹp. Ngay cả những nhà bác học, chỗ thấy của họ cũng còn giới hạn, cũng còn có nhiều điều chưa biết. Vậy thì tại sao chúng ta dám tự hào về cái thấy biết của mình?

Để thấy lại chỗ này, chúng ta thử đặt thêm câu hỏi. Hiện tại chúng ta ai không có mắt chăng? Nếu không phải là người mù, thì ai ai cũng đều có mắt, vậy tại sao Phật bảo chúng ta là vô minh? Vô minh tức là mù tối, là không sáng suốt. Có mắt sao gọi là không sáng suốt? Bởi vì chúng ta có mắt mà thấy biết theo tình mê, nhìn đảo lộn sự thật, lấy cái giả làm chân, không phải ta lại chấp bướng, chấp càn là ta. Hơn nữa, thấy biết cái gì cũng luôn luôn dán nhãn hiệu “TA” vào trong đó, cho nên thấy biết cái gì cũng đều bóp méo sự thật theo cái ta: ta thấy, ta hiểu, cái thấy của ta là trên hết, là bất khả xâm phạm. Vậy không phải vô minh là gì? Có thể hài lòng được sao?

Trong kinh Niết Bàn có kể câu chuyện: Một ông Vua muốn thử chỗ nhận biết của những người mù thế nào, bèn sai đem con voi ra trước sân và cho gọi một số người mù đến trước con voi, bảo thử diễn tả con voi cho ông nghe. Đám người mù đó lăng xăng đến rờ con voi, người rờ trúng cái đuôi, bảo: con voi giống cây chổi. Người rờ trúng chân bảo: con voi giống cây cột. Người rờ trúng bụng bảo: con voi giống cái lu. Người rờ trúng cái tai bảo: con voi giống cái quạt v.v… rồi cãi nhau inh ỏi. Trong khi đó ông vua nhìn thấy toàn thể con voi rõ ràng, chỉ biết cười thôi.

Câu chuyện đơn giản mà thật ý vị! Tại sao đám người mù cãi nhau inh ỏi? Chỉ vì chỗ thấy chưa trọn vẹn. Dù mỗi người có thật sự đụng đến con voi, nhưng vì chỉ đụng đến một góc, một cạnh, không thấy thấu được toàn thể con voi mà cứ chấp chặt chỗ nhận biết của mình là đúng hơn hết, do đó thành cãi. Cãi đó là để làm gì? Để nêu cao, bảo vệ cái thấy biết của ta là đúng nhất! Không ngờ TA THẤY chỉ là một khía cạnh thôi, càng cãi càng lộ bày chỗ dở của mình ra mà không hay.

Trái lại, ông vua mắt sáng nhìn thấy trọn vẹn con voi trước mắt rõ ràng, chỉ cười thôi, đâu nhọc tranh cãi làm gì? Đó là nói người có đụng đến con voi thật sự nhưng đụng chưa trọn vẹn mà còn thấy lệch lạc như thế, huống nữa người chưa đụng đến, chỉ nghe nói rồi ức tưởng mà đi cãi, thì còn phải nói sao đây?

Quả thật, xét cho cùng tột thì cái THẤY BIẾT của chúng ta hiện tại đây rất còn giới hạn, nhưng vì cái TA che mờ thành ra tự hào thôi. Hãy xem, đồng là một cô thiếu nữ mà người thì thấy đẹp, người thì thấy xấu tùy theo ý riêng của mình. Người nhìn trên sắc tướng thấy thích liền bảo là đẹp. Người nhìn trên đức hạnh không vừa ý bảo là xấu nết.

Cũng vậy, cùng một đóa hoa, ta thấy là đẹp, người thấy là xấu. Tại sao như thế? Chỉ vì trong đầu ta chưa từng thấy đóa hoa nào đẹp hơn đóa hoa này, còn người kia thì trong đầu họ đã từng thấy nhiều đóa hoa đẹp hơn đóa hoa này gấp bội. Nhưng “hoa vẫn là hoa”, nó có nói tôi đẹp, tôi xấu bao giờ đâu? Chỉ vì mỗi người chúng ta đem cái khuôn in sẵn trong đầu của mình ra để đo nó, bóp méo, bắt nó phải đẹp, phải xấu theo cái khuôn TA ấy, thành ra không thấy trọn vẹn được đóa hoa. Vậy mà cũng tự hào! Chừng ấy đủ thấy chỗ lầm của mình rồi!

Trong kinh Lăng Nghiêm có nói đến CÁI THẤY BIỆT NGHIỆP và CÁI THẤY ĐỒNG PHẬN.

- Cái thấy biệt nghiệp, như ban đêm có người bị bệnh mắt nhìn thấy ngọn đèn có thêm cái bóng tròn năm màu hiện ra, nhưng người mắt sáng dù ở bên cạnh nhìn xem vẫn không thấy.

- Cái thấy đồng phận, như người nước này thấy những điềm bất tường như sao chổi, sao băng, hai mặt trời v.v… mà người ở nước khác không thấy.

Cũng vậy, chúng ta luôn luôn thấy biết sự vật đều có một cái bóng tròn đi theo sát bên mình. Bóng gì? Đó là “bóng của một cái tôi.”

Kìa, núi cao, sông sâu, do đâu mà cao, mà sâu? Chúng ta hãy đến hỏi xem núi, nó có nói nó cao nó thấp bao giờ chăng? Sông, nó có nói nó sâu, nó cạn gì chăng? Quả là chúng ta gán cái tôi vào trong đó, rồi bắt nó cạn, nó sâu, nó cao, nó thấp theo cái tôi này! Tôi thấy núi này cao vì trong đầu tôi chưa thấy núi nào cao hơn. Người kia thấy núi này thấp, vì trong đầu họ đã từng thấy những núi cao hơn. Thế là núi có cao, có thấp theo cái “bóng nhòa một cái tôi”. Vậy bảo là chân lý muôn đời được sao? Gân cổ lên cãi để bảo vệ cho nó được sao?

Từ một người bệnh có bóng nhòa cái tôi đó, mà thấy sự vật có mang theo cái bóng nhòa ấy, rồi người người bệnh mắt cũng đồng thấy sự vật có cái bóng nhòa theo bên, nên cùng hài lòng trong đó cho là chúng ta thấy đúng. Song những người mắt sáng không cùng chung bệnh mắt đó, như người ở nước khác bên cạnh thì vẫn thấy bầu trời trăng sao trong sáng, không có sao chỗi, sao băng gì. Tức nhân một người bệnh mắt mà nói rộng ra nhiều người trong một nước đồng cái thấy bệnh ấy, gọi là cái thấy đồng phận. Tức là cái lầm chung với nhau.

Chính vì mỗi người đều sống có một cái bóng tròn riêng nên ai ai cũng đều sống với cảnh giới riêng, dù ngồi sát bên nhau nhưng trong đầu mỗi người vẫn đang có một cảnh giới riêng, nên cũng không tiếp xúc được nhau. Xả cái bóng TA đó đi, thì gặp nhau tất cả, còn gì tranh cãi nữa?

Ông Tô Đông Pha có bài tụng nói về LÔ SƠN CHÂN DIỆN MỤC, tức MẶT MÀY THẬT CỦA NON LÔ:

Hoành khán thành lãnh trắc thành phong,

Viễn cận cao đê giai bất đồng.

Bất thức Lô sơn chân diện mục,

Chỉ duyên thân tại thử sơn trung.

Nghĩa:

Nhìn ngang thành dãy, xéo thành non,

Cao thấp, xa gần thảy chẳng đồng.

Chẳng biết Lô sơn mày mặt thật,

Bởi tại núi này thân ở trong.

Cũng là một ngọn núi Lô, nhưng người đứng ngang thì nhìn thấy là một dãy núi, người đứng xéo nhìn lại thấy chỉ là một ngọn núi, đứng gần thì thấy cao, đứng xa thì thấy thấp v.v… Nhìn theo kiểu đó, hẳn muôn đời đâu thấy được mặt mày thật của non Lô, trái lại là nhìn theo cái BÓNG TA rồi! Đó là vì, thân đang bị kẹt trong núi này, đang đóng khung trong núi năm uẩn ta đây, hẳn không thể thấy được chân lý. Song chân lý thật sự ở đâu mà không thấy?

II. CHÂN LÝ Ở TRONG TA

Chúng ta cứ lo hướng ra bên ngoài chạy tìm chân lý, không ngờ chân lý ở ngay chính mình. Mình sai thì thấy cái gì cũng sai, theo cái tình sai lầm đó. Trái lại, mở sáng mắt tâm, phá mê lầm thì thấy cái gì cũng sáng suốt đúng như thật.

Có một bà nọ đến nghe Thiền sư Bạch Ẩn thuyết giảng rằng: “Tâm thanh tịnh thì cõi nước thanh tịnh, đức Phật trong mỗi chúng sanh: Một khi đức Phật xuất hiện thì mọi vật trên thế gian đều chiếu ánh quang minh. Nếu ai muốn nhận được điều này, phải phản quan tự kỷ, đến chỗ nhất tâm bất loạn. Vì tâm tịnh tức độ tịnh, thì làm sao để trang nghiêm tịnh độ? Vì Phật vốn sẵn trong mỗi chúng sanh thì tướng tốt và vẻ đẹp của Phật là gì?”

Nghe xong bà nghĩ: “Điều đó không khó!” Về nhà bà bắt đầu quán chiếu suốt ngày đêm, đeo đuổi mãi dù ngủ hay thức.

Một hôm, đang rửa nồi, thình lình bà tỏ ngộ.Mừng quá, bà ném cái nồi qua bên, liền đến gặp ngài Bạch Ẩn. Bà nói:

- Tôi bỗng gặp đức Phật trong thân tôi. Mọi vật rạng ngời ánh sáng. Thật kỳ diệu! Kỳ diệu!

Bà quá đỗi sung sướng. Bạch Ẩn chợt bảo:

- Bà nói như thế, nhưng còn cái hầm phân thì sao? Nó có chiếu sáng không?

bước lên, đấm vào Bạch Ẩn nói:

- Ông già này chưa ngộ.

Bạch Ẩn cười to.

(Những Nụ Cười Thiền)

Xem đấy! Bà này tỏ ngộ liền sung sướng hứng khởi, cảm thấy đức Phật ngay trong thân bà và mọi vật trước mắt đều sáng ngời ánh sáng ấy. Tuy nhiên nghe vậy, Bạch Ẩn còn gạn lại để xem bà đã có kinh nghiệm thực sự hay do một cái khuôn đúc sẵn trong đầu đã học hiểu từ trước. “Tất cả đều sáng ngời, vậy hầm phân thì sao? Nó có chiếu sáng chăng?” Nếu nghe nói hầm phân, cái “khuôn nhơ sạch” trong đầu hiện ra, bèn trầm ngâm do dự, thì biết ngay là chưa phải. Ở đây, bà đã thực sự kinh nghiệm rõ ràng, nên trả lời ngay bằng một cái đấm “Ông già này chưa ngộ!” Cho thấy lời lẽ kia không thể lừa được bà!

Như vậy, cũng cảnh này, khi mê thấy sai khác theo tình mê, khi giác thấy sáng tỏ theo ánh sáng chánh giác, nhưng núi sông vẫn là núi sông, chưa từng có mê ngộ. Chúng ta thì thường bị lầm theo bên ngoài. Chẳng hạn lâu nay chúng ta đọc truyện Kiều, thấy Nguyễn Du nói:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Thông thường ai cũng thấy hay, đúng với tâm cảnh chúng ta hiện tại phải không? Tuy nhiên, mở con mắt thiền, phản chiếu trở lại xem, có thực đúng chưa?

Cảnh, nó có đeo sầu, đeo não chăng? Hay là chúng ta lấy CÁI TA mà đeo vào nó? Đó là đem cái ta mà đo lường cảnh, đem cái ta rọi vào cảnh, nhìn cảnh qua cặp kiếng màu đen sậm một CÁI TA! Sự thật, cảnh có buồn có vui gì đâu? Chúng ta đem cái buồn vui trong lòng mình rồi gán vào cho cảnh, bắt nó buồn, nó vui theo mình, gọi đó là chân lý được sao? Các pháp từ tâm sanh là đấy!

Xưa có vị tăng ở Hải Đông qua Trung Hoa tham học, giữa đường mệt mỏi không chỗ trú , bèn tạm vào ngôi mộ cổ nghỉ qua đêm. Trong lúc đó, khát nước quá, ông nhìn qua bên cạnh thấy có nước, lấy tay vốc lên uống nghe ngọt ngào hết khát. Sáng ra, nhìn lại đó là một cái sọ người, ông liền ói mửa ra. Ngay lúc đó ông chợt tỉnh ngộ: “Một tâm chẳng sanh, muôn pháp không lỗi.”

Chúng ta thấy cái nguy hiểm của “tâm sanh” chưa? Tại sao cũng nước đó mà lúc đêm uống vào thấy ngọt ngon, muốn uống thêm, đến sáng ra nhìn lại chưa kịp uống đã nôn mửa! Nguyên nhân nằm ở chỗ nào? Chính do tâm phân biệt chứ gì? Nghĩa là, vừa xen cái tôi phân biệt vào liền có nhơ sạch sai biệt, có ngăn cách trong ngoài. Bám chặt vào cái thấy biết đó để đề cao cái TA giữa thế gian này, chính là sống trong mê lầm. Vì vậy, ngay đây nếu có ai cứ đem cái TA này đi phê bình người này, người nọ thì biết ngay là đang sống trong cái thấy biết gì, khỏi phải nói thêm nhiều!

III.THẤY BIẾT ĐÚNG NHƯ THẬT LÀ NÓ

Đã rõ cái thấy biết sai lầm méo mó như trên rồi, giờ đây chúng ta phải nhìn trở lại trong ánh sáng trí tuệ, thấy biết đúng như thật nơi các pháp. Thân này không phải ta, thấy đúng không phải ta. Tâm sanh diệt thế nào thấy đúng như thế không lầm. Núi sông thấy đúng như núi sông. Thấy biết một cách rành rõ không xen lẫn cái ta vào, không đồng hóa thấy biết với cái bị thấy, không theo một cái khuôn nào trong đầu.

Phải thấy như Phật đã nói trong kinh Pháp Hoa: “Như Lai chẳng như ba cõi mà thấy ba cõi, Như Lai thấy suốt không có sai lầm.”

Thấy không sai lầm là phải thấy như vậy. Chẳng như ba cõi mà thấy ba cõi là thấy thế nào? Tức là thấy biết tất cả thế gian trước mắt, nhưng thấy biết vẫn là thấy biết, nguyên vẹn như nó là nó, nên thấy tất cả mà không là cái gì hết. Thấy như thế tức là Như Lai thấy, ba cõi làm sao che mờ, dối gạt được nữa? Đó là thấy biết không dừng trụ trên bất cứ cái gì.

Chính chỗ này, vị tăng hỏi ngài Qui Tỉnh về cây bách của Triệu Châu, Qui Tỉnh bảo:

- Ông có tin chăng?

Tăng thưa:

- Lời quý trọng của Hòa thượng con đâu dám chẳng tin.

Qui Tỉnh bảo:

- Ông có nghe giọt mưa rơi trước thềm chăng?

Tăng chợt tỉnh la: “Chao!” và làm bài kệ:

Thiềm đầu thủy đích,

Phân minh lịch lịch.

Đả phá càn khôn,

Đương hạ tâm tức.

Nghĩa:

Giọt mưa trước thềm,

Rành rẽ rõ ràng.

Càn khôn đập nát,

Liền đó tâm dừng.

Chú ý! Từng giọt từng giọt mưa rơi, nghe biết rõ ràng rành rẽ không một chút mê mờ, thì giọt mưa vẫn là giọt mưa nhưng tâm sáng ngời không thêm bớt, lấy bỏ gì trong đó. Như vậy là chính mình đang hiện hữu ngay từng giọt mưa rơi! Thấy biết được như thế thì thấy biết cái gì cũng sáng ngời, đâu đâu cũng là Phật pháp, chân lý hiện khắp mọi nơi.

Vua Lý Thái Tông hỏi về chỗ sống hằng ngày của Thiền sư Thiền Lão, Sư đáp:

Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác,

Trăng trong mây bạc lộ toàn chân.

(Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh,

Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân)

Tâm Thiền sư đã sáng tỏ nên nhìn ra thấy lẽ thật toàn bày trước mắt, không có một chút gì che mờ. Chỗ nào cũng hiển lộ tánh chân ấy. Song có người nghe thế sẽ bảo: “Câu đó quá cũ rồi, tôi đã nghe nhàm lỗ tai”. Nói thế là có thấy sáng ngời được chăng? Và nói thế là biết rõ mình đang sống với cái gì? Tức đang sống với tâm quá khứ cũ xưa, với cái khuôn chết cứng trong đầu, nên liền đó hết lộ toàn chân mà “lộ toàn cái tôi” trong đó! Người học đạo cần xét kỹ điểm này.

IV. HÃY TRẢ LẠI CÁI BIẾT NGUYÊN VẸN, SẠCH MỌI KHÁI NIỆM

Như vậy, để sống được trong cái thấy biết đúng như thật ấy, chúng ta hãy trả về cái biết nguyên vẹn, sạch mọi khái niệm đóng khuôn trong đầu này. Hòa thượng Vân Môn từng thượng đường giơ cây gậy lên bảo: “Phàm phu thấy nó là thật. Nhị thừa phân tích nói là không. Viên giác thấy như huyễn. Bồ Tát thì đương thể tức không. Thiền gia thấy cây gậy là cây gậy, đi chỉ đi, ngồi chỉ ngồi, không được động đến.” Thế là thiền gia cao hơn Bồ Tát, Viên giác sao? Chỗ này người hiểu theo ngôn ngữ dễ lầm.

- Phàm phu: vì còn mê chấp nên thấy cái gì cũng thật, do đó thấy cây gậy là thật cây gậy, thành bị vật che mờ ánh sáng chân thật chính mình.

- Nhị thừa: thì do phân tích sự vật theo thời gian sẽ hoại diệt, không thật bền bĩ nên nói là không, nhưng chưa phải ngay đó thấy như thật.

- Viên giác: ngay đó thấy như huyễn không thật có, tức cũng còn có chỗ lý quán như huyễn đó! Nghĩa là còn có cái lý như huyễn để thấy.

- Bồ Tát: ngay đương thể đây thấy rõ tức không, không đợi phân tích theo thời gian mới thấy thành không. Song như thế cũng chưa khỏi còn chỗ chiếu soi cái không ấy nên vẫn chưa tột lý.

- Thiền gia: thấy đúng như thật nó là nó, không thêm bớt chút gì trong đó. Nghĩa là, ngay đó thật thể hiện tiền, không thêm một ý niệm gì khác, vì vậy bảo: “không được động đến”. Động đến tức có xen cái tôi vào!

Tuy nhiên, đây là ngầm chỉ nếu người còn kẹt trên lý sai biệt, còn vướng trong cái thấy thứ lớp tức chưa rốt ráo, không phải bảo Thiền gia cao hơn Bồ Tát, Viên Giác. Nếu người khởi cái thấy cao thấp đó, liền mê như cũ! Cốt là, sạch mọi khái niệm trong đầu, cây gậy chỉ là cây gậy, ông làm sao xen thêm cái gì để hiểu? Có thêm cái hiểu thì cây gậy không còn là cây gậy, mà đã thành “ cây gậy của tôi”. Mê Ngộ chỉ trong đường tơ kẻ tóc ấy.

Một dịp khác, Thiền sư Quế Sâm cùng Trường Khánh, Bảo Phước đi vào trong Châu, thấy một đóa hoa mẫu đơn, Bảo Phước nói:

- Một đoá hoa mẫu đơn đẹp.

Trường Khánh bảo:

- Chớ để mắt sanh hoa!

Quế Sâm nói:

- Đáng tiếc một đóa hoa!

Ôi, chỉ một đóa hoa bình thường vô sự, bất ngờ bị ba lão gây thành sóng gió sai biệt!

Hoa, nó có nói đẹp nói xấu gì? Nó có làm mắt sanh hoa bao giờ đâu? Hoa chỉ là hoa thôi, chớ xen “ý niệm” gì khác nữa. Tuy nhiên trong đây nếu người nhìn theo cái khuôn khái niệm trong đầu, liền bị ba lão gạt dễ dàng. Tức có người bảo, trong đó Quế Sâm hay hơn tất cả, Bảo Phước còn nói đẹp xấu, Trường Khánh còn theo đuôi Bảo Phước lấy bỏ. Đâu biết rằng “Trường Khánh, Quế Sâm và mình” đều rơi vào cái bẫy của Bảo Phước mà không hay.

Kìa, Bảo Phước không sóng cố gây thành sóng để trêu người! Trường Khánh, Quế Sâm mỗi người tự có chỗ sống, nhưng bất ngờ bị Bảo Phước khám phá ra rồi! Chúng ta không hiểu, chen vào đó khen chê, lại rớt vào bẫy! Vậy có ai khéo trả lại đóa hoa bình thường xem!

V. TÓM KẾT

Cuối cùng ngay đây, cái gì vay mượn hãy trả về cho vay mượn, mọi thứ trả về cho mọi thứ, trống sạch mọi khái niệm khuôn khổ đóng cứng trong đầu, NHƯ THẬT THẤY BIẾT ĐÚNG NHƯ THẤY BIẾT, không xen thêm cái gì vào, nhất là không cái tôi xem! Tức liền đó, luôn luôn thấy biết mới mẻ, vi diệu! Nếu bảo rằng: “Sao cứ bao nhiêu đó nói hoài”, thì ngay đó biết rằng mình đang thấy biết với cái gì? Quả tang là với cái khuôn quá khứ trong đầu, với cái tâm quá cũ của quá khứ, chớ vội tự hào!

Chúng ta hãy nghe câu chuyện Đàm Thạnh với Dược Sơn. Đàm Thạnh đứng hầu, Dược Sơn hỏi:

- Bá Trượng nói pháp gì?

Sư thưa:

- Có khi Ngài thượng đường, đại chúng nhóm họp xong. Ngài lấy gậy đuổi tan, rồi gọi: - Đại chúng! Đại chúng xoay đầu nhìn lại, Ngài liền hỏi: - Là cái gì?

Dược Sơn bảo:

- Sao chẳng nói sớm thế ấy, ngày nay nhân ông ta thấy được Hải huynh.

Trong đây cho thấy, Đàm Thạnh chỉ nhắc lại việc cũ của Bá Trượng thôi, vì sao Dược Sơn bảo: “Nhân ông ta thấy được Hải huynh?” Tức nhân đó Dược Sơn thấy được Bá Trượng. Vậy thì ngay đó Bá Trượng hiện tiền sáng ngời, sao bảo là lời cũ được? Nhưng chúng ta nghe nhắc lại thì có thấy Bá Trượng chăng? Tại sao không thấy?

Đơn giản, bởi vì tâm chúng ta quá cũ! Bởi tâm mình quá cũ nên nghe cũng thành cũ, rồi cho là chuyện cũ, làm sao thấy được! Đây là chỗ phải nghiệm kỹ để không lầm, thành ra chỉ sống với cái cũ chết, lại tự cho là mình thông minh nghe qua liền hiểu rồi! Người học thiền phải NGHE THẤY với tâm luôn mới mẻ chưa từng trải qua ý niệm gì, thì sẽ nghe được những điều không ngờ! Đừng vội bảo lời cũ, chuyện cũ, mà hãy xét lại tâm mình có cũ không?

Và đây, có vị tăng hỏi ngài Linh Vân:

- Thế nào là chư Phật chưa ra đời?

Sư đưa cây phất tử lên.

Tăng hỏi tiếp:

- Thế nào là chư Phật đã ra đời?

Sư cũng đưa cây phất tử lên.

Vậy là Chư Phật chưa ra đời, ở đâu? Rồi Chư Phật đã ra đời thì ở đâu?

Rõ ràng cũng chỉ ngay THẤY BIẾT này thôi! Nhưng tại sao chúng ta chỉ thấy có chúng sanh ra đời? Lỗi tại ai?

chín chắn kiểm điểm lại xem, ngay bây giờ đây, chư Phật ở đâu?

Đưa quyển sách này lên được chăng?

Mong tất cả luôn luôn mở mắt, THẤY BIẾT NHƯ THẬT, đó là chỗ cùng gặp nhau trong ánh sáng chân thật.

TÂM THỂ TINH KHÔI
TỨC TÂM THỂ MỚI MẺ,
CÒN NGUYÊN VẸN
Y NHƯ NÓ LÀ NÓ TỰ THUỞ NÀO

I. AI KHÔNG TÂM THỂ? 

Điều trước nhất cần xét kỹ lại xem, trên thế gian này, ai là người không có tâm thể? Thấu được chỗ này thì rõ chỗ căn bản mê lầm của chúng ta từ vô thủy đến nay.

Thường chúng ta bị Phật gọi là mê, là sống trong hư vọng phải chăng? Đã gọi là mê, nếu không có tâm, lấy gì là mê? Cây đá, máu thịt, gân xương đâu biết mê? Có mê là chấp nhận có Tâm rồi. Đây là một điểm.

Thứ hai, gọi là vọng, tức là sao? Nghĩa là trái với chân thể thì gọi là vọng chứ gì? Nếu hoàn toàn không có chân thể thì nói vọng cũng dư. Cho nên nói vọng là ngay đó tự thầm nhận có chân thể. Chính vì chúng ta bỏ quên cái TÂM THỂ CHÂN THẬT ban đầu này, nên mãi lang thang đuổi theo bóng dáng sanh diệt, gọi đó là vọng.

Vua Trần Thái Tông trong bài kệ tóm tắt NÚI THỨ NHẤT có hai câu:

Chỉ sai hữu niệm quên vô niệm,

Liền trái không sanh nhận có sanh.

Tức là, đang ở trong thể vô niệm vô sanh an ổn không chuyện gì, bỗng động niệm liền đó quên mất chính nó, ngay đó là trái với vô sanhđi vào có sanh có diệt, đây là nhận cái vọng chứ gì? Song, sở dĩ có niệm, có sanh là vì sao? Vì quên chỗ vô niệm, vì trái chỗ vô sanh thôi.

Có vị tăng hỏi Hòa thượng Lang Nha:

- Thanh tịnh sẵn vậy, vì sao bỗng sanh núi sông, cõi đất?

Sư đáp:

- Thanh tịnh sẵn vậy, vì sao bỗng sanh núi sông, cõi đất?

Đây là ông tăng dẫn kinh Lăng Nghiêm, Ngài Phú Lâu Na hỏi Phật. Chỗ đặc biệt của Thiền sư là giống như chỉ lập lại câu hỏi vậy thôi, nhưng lại là cách đáp chính xác vô cùng. Câu hỏi là: Đang sẵn thanh tịnh như vậy, cớ gì bỗng sanh ra các thứ? Thiền sư lập lại y nguyên câu hỏi, như dội lại ngay chỗ vừa hỏi đó. Chính ngay đó, ông đang thanh tịnh an ổn không việc gì, bất chợt khởi niệm hỏi, không phải là trong ấy bỗng sanh núi sông, cõi đất hay sao? Ngay đó tỉnh lại, liền rõ chỗ trước khi sanh chứ gì! Chỉ một chút kẽ hở này liền phân mê ngộ cách biệt. Kinh Pháp Hoa gọi là, cùng tử lang thang bỏ cha đi làm kẻ ăn mày nơi đất khách quê người. Đất khách nào? Chính là các trần trước mắt đây! Vừa ở trần này, lại vào trần kia, rồi bắt qua trần nọ, cứ thế đi mãi, đi mãi… quên hẳn đường về! Song, chính khi chạy vào các trần đó, thì cái gì chạy? Than ôi! Lại mê cái ấy, chỉ biết có trần thôi, vô minh là đấy!

Hòa thượng Thạch Đầu đã từng bảo Đại Điên:

- Trừ ngoài nhướng mày chớp mắt hãy đem tâm lại!

Đại Điên thưa:

- Không tâm có thể đem lại.

Thạch Đầu liền bảo:

- Nguyên lai có tâm sao nói không tâm, không tâm tức đồng với chê bai rồi!

Kìa, ông bảo không tâm, vậy chính “cái gì nói là không tâm đó?” Bởi người người đều có sẵn tâm thể ấy mà bỏ quên không chịu nhận, có mà không hay biết nên gọi là Mê, nhớ lại là Giác. Lẽ thật rõ ràng như thế, còn gì nghi ngờ nữa?

II. TÂM THỂ Ở ĐÂU?

Đã biết có tâm thể rồi, vậy thì tâm thể đó ở đâu mà mê? Sự thật nó không ở đâu cả mà ở ngay chính mình, đó là một điều không ai ngờ. Chính vì không ngờ nên mọi người cứ chạy đi tìm. Nhưng tìm ở đâu cho ra?

Trong Huyết Mạch Luận, Tổ Sư đã bảo: “Ba cõi đều dấy lên, đồng về một tâm. Phật trước, Phật sau lấy tâm truyền tâm, chẳng lập văn tự. Hỏi: - Nếu chẳng lập văn tự, lấy gì làm tâm? Đáp: - Ông hỏi tôi chính là tâm ông, tôi đáp ông chính là tâm tôi. Tôi nếu không có tâm, nhân đâu biết đáp ông? Ông nếu không có tâm, nhân đâu biết hỏi tôi? Hỏi tôi chính là tâm ông, từ vô thủy kiếp đến nay, cho đến mọi hành động tạo tác trong tất cả thời, tất cả chỗ đều là bản tâm ông”.

Trong đây Tổ Sư xác định rõ ràng, tất cả thế gian có ra, dù có muôn ngàn sai khác, mà không cái gì ra ngoài MỘT TÂM. MỘT TÂM nào? Người học đạo cần thấu rõ chỗ MỘT TÂM này, liền rõ gốc gác của sanh tử. MỘT TÂM đó, chính là “tâm thể không hai” hay “tâm thể tinh khôi” chứ không gì khác. Tâm thể này đâu thuộc văn tự chữ nghĩa? Ngòi bút nào ghi được nó? Cho nên Phật Phật truyền nhau chỉ là truyền tâm này. Hay nói rõ hơn, chính đây là chỗ sống của chư Phật, lìa chỗ này thì Phật chỉ còn là Phật trong sách vở.

Đây, Tổ Sư chỉ thẳng cho thấy tâm này ở đâu? “Hỏi tôi chính là tâm ông, đáp ông chính là tâm tôi”. Chính ngay chỗ hiện tiền “đang hỏi đáp”, tâm thể sẵn hiện hữu trong đó. Nếu không có tâm, nhân đâu có hỏi, có đáp? Đây là nhân cái DỤNG, Tổ Sư chỉ ra cái THỂ. Đã có cái dụng phát ra nói năng, hỏi đáp, tới lui, qua lại đó, thì từ cái gì mà khởi dụng? Nếu không có Thể thì lấy gì khởi Dụng? Tuy nhiên chỗ này cũng dễ lầm! Nếu người hấp tấp nhận cái nói năng, động dụng đó cho là bản tâm, thì cũng mê. Tại sao? Vì nếu nhận cái “hỏi đáp” đó cho là bản tâm, khi không hỏi đáp thì sao? Tức thành không có tâm hay sao? Nhận như thế là nhận trên cái sanh diệt rồi! Trong đây phải thật chính chắn. Cốt yếu là, người lanh lợi phải khéo nhân đó mà thầm nhận trở lại “tâm thể kia”. Từ tâm thể đó ứng dụng ra mới không lầm.

Để rõ hơn, chúng ta hãy nghe thầy trò Qui Ngưỡng hiển bày “thể dụng” cho thấy. Qui Sơn đang hái trà, Sư gọi Ngưỡng Sơn bảo:

- Cả ngày hái trà, chỉ nghe tiếng con mà chẳng thấy hình con.

Ngưỡng Sơn liền rung cây trà. Qui Sơn bảo:

- Con chỉ được cái dụng của nó, chẳng được cái thể của nó.

Ngưỡng Sơn thưa:

- Chưa biết Hòa thượng thế nào?

Qui Sơn im lặng. Ngưỡng Sơn nói:

- Hòa thượng chỉ được cái thể của nó, chẳng được cái dụng của nó.

Có ai thấy được thầy trò Qui Ngưỡng chăng? Qui Sơn bảo hiện hình, Ngưỡng Sơn “rung cây trà”, tức hiện hình đó rồi. Sao Qui Sơn còn bảo “chỉ được dụng, không được thể”? Chẳng lẽ ngoài cái dụng đó, riêng có cái thể nào khác nữa? Nếu quả thực không có cái “thể” thì lấy gì hiện ra cái “dụng” ấy? Đây là Qui Sơn ngầm nhắc cho người, chớ lầm bị Ngưỡng Sơn gạt, chỉ thấy trên tướng động của cây trà là mờ mắt. Phải thấy sâu qua chỗ “cây trà không thể rung tới kia” thì mới tròn thể dụng!

Cho nên tiếp theo Qui Sơn im lặng là bổ túc chỗ ấy. Nhưng người không hiểu, theo lời mà bị gạt. Nghe Ngưỡng Sơn bảo: “Hòa thượng chỉ được thể, không được dụng”, bèn chê Qui Sơn là còn nghiêng lệch, tức lầm to! Nếu quả thực trong đó chỉ có “thể” mà không có “dụng”, thì đó là cái “thể chết”, vậy cái gì “Biết im lặng”? Thế nên trong đây im lặngsáng ngời, mà vang như sấm, đừng tưởng im lặng là không biết gì. Người mắt sáng, phải thấy thấu qua tướng im lặng kia mới thấy được thầy trò Qui Ngưỡng. Vì im lặng là đối với tướng nói năng, tướng rung cây trà kia, cũng thuộc tướng sanh diệt đối đãi.

Trong đây cần rõ: Ngưỡng Sơn rung cây trà, Qui Sơn đã hiện trong đó! Qui Sơn im lặng, Ngưỡng Sơn cũng hiện trong đó! Đâu thể tách rời chia hai mà nói một được, một chẳng được? Rõ ràng tâm thể vốn hiện tiền đấy thôi.

Và đây, Sở Nam đến tham vấn Hòa thượng Hoàng Bá, Hoàng Bá hỏi:

- Thế nào là trước khi ông chưa hiện hình trong ba cõi?

Sư thưa:

- Ngay hiện nay đâu phải có.

Hoàng Bá bảo:

- Có không hãy gác lại, ngay hiện nay thế nào?

Sư thưa:

- Chẳng phải xưa nay.

Hoàng Bá bảo:

- Pháp nhãn của ta chính ở nơi ông.

Cái gì là trước khi hiện hình trong ba cõi? Tức “tâm thể tinh khôi” chứ gì! Chỗ đó có hình tướng gì để thấy, để nói? Song, người nghe hỏi như thế, bèn theo câu hỏi tưởng xa xôi về quá khứ nào đó, là quên mất chính mình đang hiện hữu. Ngài Sở Nam không lầm theo ngôn ngữ, nên đáp rõ: “Ngay hiện nay đâu phải có”. Tức ngay đây, chưa khởi niệm thì có hình tướng gì? Chính đó là tâm thể tinh khôi, là chỗ chưa hiện hình trong ba cõi, đâu có tướng gì che mờ được? Tuy nhiên, vừa động niệm liền có hiện hình rồi, là rơi trong ba cõi liền đó.

Song, Hoàng Bá còn gạn thêm: “Có không hãy gác lại, chính hiện nay thế nào?” Nếu chưa phải người thực sống trong đó, hẳn khó trả lời. Sở Nam đáp thẳng: “Chẳng phải xưa nay”, tức vượt qua ý niệm xưa nay. Thể đó sờ sờ như vậy, vốn chẳng rơi vào xưa nay, chẳng thuộc trong thời gian trước sau. Rõ được chỗ này là mở con mắt pháp, ánh sáng thiền xuất hiện ngay đó!

III. TỪ ĐÂU TRỞ VỀ?

Rõ biết được tâm thể này có sẵn nơi mình đây rồi, nhưng hiện nay còn đang trong mê lầm thì từ đâu mà trở về?

Quả thực cũng rất đơn giản, vốn chính từ cái BIẾT này mà mê, thì cũng chính từ cái BIẾT này mà trở về thôi, không có con đường nào khác. Nghĩa là, BIẾT yêu, BIẾT ghét, BIẾT hơn, BIẾT thua, BIẾT phải, BIẾT quấy… đó là BIẾT trong mê, BIẾT theo duyên, theo cảnh, là cái BIẾT đi trong sanh tử luân hồi. Giờ đây, cứ ngay đó mà trở về là xong.

Kinh Lăng Nghiêm, Phật bảo: -Những người tu hành chẳng thể thành tựu Vô thượng bồ đề, cho đến riêng thành Thanh Văn, Duyên Giácquyến thuộc của ma, đều do chẳng biết hai thứ căn bản, tu tập lầm lộn. Thế nào là hai thứ?

1. CĂN BẢN SANH TỬ TỪ VÔ THỦY: tức chính ông hiện nay và các chúng sanh dùng “tâm phan duyên” làm tự tánh.

2. THỂ BỒ ĐỀ NIẾT BÀN THANH TỊNH SẴN CÓ TỪ VÔ THỦY: tức chính ông hiện nay cái “thức thể sẵn tự sáng ngời” (Thức tinh nguyên minh), nó hay sanh ra các duyên, mà bị các duyên bỏ sót nó. Do các chúng sanh bỏ sót cái “sáng suốt sẵn có”(Bổn minh) này nên tuy trọn ngày tu hành mà chẳng tự giác, uổng đi vào các thú.

Dùng tâm phan duyên làm tự tánh, đó là căn bản sanh tử từ vô thủy đến nay. Tâm phan duyên tức cái Biết theo duyên chứ gì? Còn “thể Bồ Đề niết bàn sẵn có từ vô thủy” là ở đâu? Tức ngay cái “thức thể sẵn có sáng ngời” hiện nơi mình đang sống đây thôi. Cái thức thể đó là gì? Chính là CÁI BIẾT SỜ SỜ đây, hay cái TÂM THỂ TINH KHÔI đấy! Chính CÁI BIẾT CÒN NGUYÊN VẸN, MỚI MẺ, TINH KHÔI NHƯ NÓ LÀ NÓ CỦA TỰ THUỞ NÀO nên gọi là “thức tinh”. Nó hay sanh ra các duyên, là nó Biết cái này, Biết cái nọ, Biết đủ thứ không thiếu sót. Biết duyên tức là sanh, vì khi biết cái nào là có cái đó hiện. Nhưng khi nó Biết cái gì, thì nó chỉ nhớ cái đó, nó đồng hóa mình là cái đó mà quên mất chính nó, nên gọi là “bị các duyên bỏ sót nó.” Chính vì bỏ sót nó, gọi đó là Mê, là quên mất đường về, nên đi vào các thú. Tu hành mà cứ lấy cái Tâm chỉ Biết theo duyên đó để tu, thì bao giờ tự giác được để trở về? Song, đường về ở đâu mà không trở về được? Cũng chính ngay đó thôi. Muốn trở về, cũng phải ngay cái Biết đó mà trở về, chính đây là quê nhà muôn thuở!

Trở về thế nào? Chỉ cần: Biết tất cả mà không bỏ sót chính nó vậy thôi.

Thiền sư Lâm Tế - Nghĩa Huyền có lần thượng đường bảo: “Có một người ở mãi giữa đường mà chẳng lìa nhà, có một người lìa nhà mà chẳng ở giữa đường.”

Thật là nghịch lý chăng? Tại sao lìa nhà mà chẳng ở giữa đường? Ở giữa đường mà chẳng lìa nhà? Thiền như thách thức với đầu óc quen đóng khung trong vòng lý luận của thế tình, nhưng lại là một lẽ thật sáng ngời với người đã mở mắt tuệ. Vậy ai thấy người nào ở mãi giữa đường mà chẳng lìa nhà? Người nào lìa nhà mà chẳng ở giữa đường? Và trong đây là mấy người? Quả thật chính là “tâm thể tinh khôi” này thôi. Dù chúng ta đang mê mờ lang thang trong trần, nhưng sự thật nó có đi đâu?

Chỉ cốt ngay đây đổi lại: thay vì Biết tất cả mà quên mất chính nó, giờ đây hãy Biết tất cả mà không bỏ sót chính nó trong bất cứ trường hợp nào, trong bất cứ nơi chốn nào, thì có chỗ nào vắng mặt nó đâu? Như thế rõ ràng đâu đâu chẳng là quê nhà? Nghĩa ở giữa đường mà chẳng lìa nhà sáng tỏ như ban ngày, có gì phải nghi ngờ!

Bài kệ của Ngài Tam Bình nói:

Tức thử kiến văn phi kiến văn,

Vô dư thinh sắc khả trình quân.

Cá trung nhược liễu toàn vô sự, 

Thể dụng hà phòng phân bất phân.

Nghĩa:

Chính thấy nghe này chẳng thấy nghe,

Đâu thừa thinh sắc đáng trình anh.

Trong kia nếu rõ toàn vô sự,

Thể dụng ngại gì phân chẳng phân.

Chính ngay cái THẤY NGHE hiện tiền đây, thấy nghe tất cả mọi sắc thinh nhưng không dừng ở một sắc, một thinh nào, tức thấy nghe mà chẳng thấy nghe chứ gì. Đó là thấy nghe nguyên vẹn như nó là nó, ngay đó trọn vẹn sáng ngời đâu còn có chút sắc thinh nào lẫn vào để mà trình. Thấy nghe như thế là toàn “THỂ” ở trong thấy nghe rồi, thấy là toàn thể thấy, nghe là toàn thể nghe, vậy còn có cái thể nào riêng khác nữa đâu mà chia là thể, là dụng? Người còn chia chẻ đây là thể, kia là dụng, là rõ ràng chưa hết mê!

Bàng Uẩn ở trong hội Hòa thượng Dược Sơn, khi từ giã đi, Dược Sơn sai mười thiền khách tiễn đến cổng. Ông bèn chỉ tuyết trong hư không nói:

- Tuyết đẹp từng mảnh từng mảnh chẳng rơi chỗ khác.

Thiền khách Toàn hỏi:

- Rơi ở chỗ nào?

Ông tát Thiền khách Toàn một cái tát, Toàn bảo:

- Cư sĩ không được vô lễ.

Ông nói:

- Ông thế ấy mà xưng là Thiền khách, Diêm Vương chưa tha ông đâu.

Toàn hỏi:

- Cư sĩ thì sao?

Ông tát cho một cái tát nữa, nói:

- Mắt thấy như mù, tai nghe như điếc.

Ông Bàng Uẩn rõ ràng có chỗ thấy sáng ngời chẳng mê. Ngay tuyết rơi, thấy rõ từng mảnh tuyết, từng mảnh tuyết rành rẽ không lầm, không có một mảnh nào lọt ra ngoài con mắt ấy, thì TÂM THỂ SỜ SỜ đó, còn phải tìm đâu nữa? Thiền khách Toàn lại lầm qua, hỏi rơi chỗ nào? Đó là theo tuyết rơi quên mất chính mình rồi. Tức bị các duyên bỏ sót nó rất đau thương, nên liền bị tát! Vậy mà Toàn còn chưa tỉnh! Nếu ngay đó khéo thấy trở lại, tức liền trên đường về, mặc cho ông Bàng Uẩn tát, làm sao tát đến chỗ này?

IV. VỀ ĐÂU?

Nói ngay đó liền trở về, nhưng về đâu? Không khéo lại kẹt theo ngôn ngữ thành mê nữa. Chỉ là trở lại trước khi khởi niệm thôi, thấy có chỗ về là nằm mộng như cũ.

Bài pháp đầu tiên Lục Tổ bảo Huệ Minh:

- Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, cái gì là mặt mày xưa nay của Thượng tọa Minh?

Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, đó là Lục Tổ đưa Thượng tọa Minh trở về trước khi động niệm, ngay đó tự nhận ra “mặt thật xưa nay” của chính mình từ vô thủy thôi. Tâm thể tinh khôi là đấy!

Sư Nhan hỏi Hòa thượng Nham Đầu:

- Thế nào là lý bản thường?

Nham Đầu bảo:

- Động.

Sư Nhan thưa:

- Khi động thì thế nào?

Nham Đầu bảo:

- Chẳng phải lý bản thường.

im lặng giây lâu, Nham Đầu bảo:

- Nhận tức chưa thoát khỏi căn trần, chẳng nhận tức hằng chìm trong sanh tử.

Lý bản thường, tức nó thường sẵn như vậy chưa có xen gì vào. Nói theo đây là tâm thể mới mẻ, tinh khôi trước khi động niệm chứ gì? Nó đã thường sẵn như vậy, chợt khởi niệm hỏi thì sao? - Tức là động rồi. Mà đã động là trái bản thường, là đi vào cái khuôn hiểu biết, khái niệm. Nếu còn chần chừ nhận chẳng nhận, tức rơi vào hai đầu sanh diệt, càng đi xa. Vượt qua đó, liền rõ lý bản thường, khỏi hỏi thêm.

Nếu người sống trong tâm thể tinh khôi này, thì nó Biết khắp rất tinh tế, không chút gì qua lọt. Như Ngài Lâm Tế từng bảo: “Sơn tăng nói pháp khác với mọi người ở khắp nơi, hoặc có Văn Thù, Phổ Hiền xuất hiện trước mặt, mỗi vị hiện mỗi thân hỏi pháp, vừa nói: -Thưa Hòa thượng! Tôi đã sớm biết rõ rồi. Huynh đệ đến gặp nhau tôi trọn biết rành. Chỉ vì cái thấy của tôi riêng khác, ngoài chẳng nhận lấy phàm thánh, trong chẳng trụ căn bản, thấy suốt trọn không có nghi lầm”.

Tại sao Sư thấy hay như vậy? Chỉ vì “ngoài chẳng nhận lấy phàm thánh, trong chẳng trụ căn bản”. Tức là luôn luôn ở trong “tâm thể tinh khôi” ấy, không theo tướng phân biệt phàm thánh bên ngoài, không trụ chỗ căn bản nơi tâm bên trong, nói đơn giản là KHÔNG TRỤ TRONG NGOÀI, nên thấy suốt không có nghi lầm. Tuy nhiên, không trụ bên ngoài thì dễ hiểu, tâm bên trong cũng không trụ nữa là sao? Bởi vì còn thấy có cái tâm căn bản để trụ, tức biến nó thành cái đối tượng rồi, là có thêm cái bóng thứ hai án ở trước, thì đâu thể thấy suốt!

Cho nên trong đây vừa có TRỤ là mất tinh khôi, là có cái khác xen vào. Do đó, trở về là về trước khi có trụ, trước khi có bạn bè, ngay đó liền gặp “Người chẳng cùng muôn pháp làm bạn”, khỏi phải chạy sang Trung Hoa tìm đến Tây Giang uống cho cạn mới được câu trả lời.

Bởi vậy, người thấu rõ chỗ này, là rõ tất cả cội nguồn Phật pháp. Tất cả bí quyết của tông môn, tất cả sâu kín của Tổ sư đều nằm trong đây, khỏi phải tìm đâu khác.

V. PHẢI LUÔN SỐNG MỚI MẺ TINH KHÔI

Bởi tâm thể này vốn mới mẻ tinh khôi, vì vậy người muốn đạt chỗ này, cũng phải giữ tâm luôn luôn mới mẻ tinh khôi, không có chứa đựng nhiều khái niệm trong đầu, không bám chặt vào một cái khuôn định sẵn khiến tâm cùn lụt, chết cứng.

Hãy xem, xưa kia Ngài Đại Mai - Pháp Thường đến hỏi Mã Tổ:

- Thế nào là Phật?

Mã Tổ đáp:

- Tức tâm tức Phật. (Phật tức là tâm, tâm tức là Phật)

Sư liền tỏ ngộ, về núi Đại Mai sống an ổn vững vàng, không còn ai dối gạt được. Trái lại, hiện giờ chúng ta đã nghe câu này không biết bao nhiêu lần, tại sao không ngộ? Chính vì bị cái KHÁI NIỆM in sẵn trong đầu này. Vừa nghe nói đến, trong đầu liền bảo ngay: “Tôi hiểu rồi”, thì đâu có cơ hội để tỏ ngộ! Sự thật thì nó có thực hiểu đâu. Hiểu đó, là Hiểu qua cái Hiểu của người xưa, Hiểu của khái niệm cũ mòn, chết cứng thôi. Chính đó là nghe với một cái tâm đã chết của quá khứ, chớ vội hài lòng!

Nếu người còn chưa tin, hãy nghe vị tăng hỏi Điều Ngự Giác Hoàng:

- Thế nào là một việc hướng thượng?

Điều Ngự đáp:

- Đầu gậy khêu nhật nguyệt.

Tăng thưa:

- Dùng công án cũ của người xưa làm gì?

Điều Ngự đáp:

- Mỗi lần nhắc lại, mỗi lần mới.

Người học đạo chớ bắt chước theo ông tăng này! Tin tức việc lớn ấy vẫn luôn có sẵn bên mình, nhưng nếu chúng ta chỉ nghe với tâm có chứa khái niệm trong đầu, thì chỉ nghe với cái khuôn cũ kỹ, nghe với cái nhớ về quá khứ đã chết, không đối diện được cái đang hiện hữu sáng ngời! Chỉ nhớ có “đầu gậy”, nhớ có “nhật nguyệt”, thì đó chỉ là danh từ rỗng thôi, làm sao đạt được “ý sống” trong ấy? Đầu gậy làm sao với tới nhật nguyệt mà khêu? Rõ ràng ý này đã vượt ngoài lời nói rồi, còn đâu để nói mới cũ?

Nếu người thực sự nghe với TÂM TRỐNG RỖNG, HOÀN TOÀN MỚI MẺ TINH KHÔI, sạch mọi khái niệm đóng khuôn trong đầu, thì bảo đảm nghe gì cũng mới mẻ, cũng sáng ngời, sẽ nghe được những điều bất ngờ! Cho nên Điều Ngự bảo: “Mỗi lần nhắc lại mỗi lần mới”. Nhắc lại là đang đối diện trực tiếp với chính ông đây, tâm tâm đang trực tiếp với nhau đây, đâu phải nói với người xưa mà bảo cũ! Còn ông, ông chỉ nghe với mớ khái niệm cũ mòn in trong đầu nên thấy là cũ. Như vậy, kết luận cho chính xác, là lời nói cũ hay chính tâm ông cũ? Người học đạo cần nghiệm kỹ chỗ này!

Chúng ta hãy nghe chuyện Huyền Tắc với Ngài Pháp Nhãn. Huyền Tắc ở trong hội Ngài Pháp Nhãn mà chưa từng thưa hỏi. Một hôm Pháp Nhãn hỏi:

- Giám viện Tắc sao chẳng vào thất thưa hỏi?

Tắc thưa:

- Hòa thượng đâu không biết con ở chỗ Thanh Phong đã có chỗ thâm nhập.

Pháp Nhãn hỏi:

- Ông thử thuật lại cho ta nghe!

Tắc thưa: 

Con hỏi Hòa thượng Thanh Phong: “Thế nào là Phật? (Có bản ghi: Thế nào là tự kỷ của con?)” Hòa thượng đáp: - Đồng tử Bính Đinh đến xin lửa.

Pháp Nhãn bảo:

- Lời khéo, nhưng ngại ông hiểu lầm nên nói lại xem.

Tắc thưa:

- Bính Đinh thuộc lửa, đem lửa đi xin lửa, như con là Phật lại đi tìm Phật.

Pháp Nhãn bảo:

- Giám viện quả nhiên lầm rồi.

Tắc nổi giận, quảy hành lý bỏ đi. Pháp Nhãn nói:

- Người này nếu trở lại còn có thể cứu, nếu không trở lại thì không thể cứu.

Tắc đi giữa đường, nghĩ lại: “Hòa thượng là bậc thiện tri thức của năm trăm người, há lại gạt ta sao?”, bèn trở lại tham vấn tiếp. Pháp Nhãn bảo:

- Ông hỏi ta đi, ta sẽ đáp cho.

Tắc hỏi:

- Thế nào là Phật?

Pháp Nhãn đáp:

- Đồng tử Bính Đinh đến xin lửa.

Tắc liền đại ngộ.

Nghiệm kỹ trong đây chúng ta sẽ thấy nhiều điều mới mẻ. Tại sao, cũng một câu nói đó mà lần trước Huyền Tắc nói thì chưa phải ngộ; lần sau Pháp Nhãn cũng lập lại thì thành thật ngộ? Chỗ này đem khái niệm trong đầu để hiểu, có thể hiểu được chăng? Bởi, chính lần đầu Huyền Tắc đáp là đáp theo cái hiểu của khái niệm, của lối mòn suy nghĩ thuộc tình thức, tự cho là hiểu mà thật là cái hiểu bắt chước, lập lại. Lần sau, Pháp Nhãn đáp, là đáp trong chỗ bất ngờ, Huyền Tắc không kịp suy nghĩ trước, tính toán trước, tức là đang đối diện trực tiếp với nhau, nên ngộ là thật ngộ! Chỗ này người đứng bên ngoài không thể suy tư đến được.

Do đó, người học đạo chúng ta phải tâm luôn luôn mới mẻ tinh khôi như vậy mà ứng dụng, mà nghe, mà học đạo thì lúc nào cũng sáng ngời vi diệu, lúc nào cũng nghe được những điều chưa từng nghe.

Hãy nhớ kỹ! Cũng câu kinh Kim Cang: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà Lục Tổ nghe qua liền ngộ, Vua Trần Thái Tông đọc đến liền tỉnh, còn chúng ta nghe hoài sao vẫn không ngộ? Lỗi tại đâu? Tại câu kinh quá cũ hay tại cái gì?

Rõ ràng tại vì chúng ta bị cái hiểu quá nhiều, quá in đậm trong đầu, nên nghe đó chỉ là nghe với bóng dáng quá khứ của chữ nghĩa chứa đầy, làm sao trực tiếp thẳng vào tâm thể được?

Vậy, ngay đây người học hãy buông sạch mọi khái niệm chứa đựng trong đầu, mọi cái hiểu của quá khứ, để tâm nguyên vẹn mới mẻ tinh khôi như nó là nó mà xem: cái gì đang đọc những dòng chữ này?

VI. TÓM KẾT 

Lâu nay chúng ta đã sống quá nhiều với những khái niệm chứa đầy ắp trong đầu, giờ đây muốn học đạo để nghe những điều chưa nghe, thì phải can đảm để tâm trống rỗng mới mẻ tinh khôi mà học, mà nghe, đó là con đường sống dậy của chính mình.

Chính ngay đó là nguồn sống vô biên chúng ta cần trở về, chư Phật, chư Tổ có sẵn trong ấy khỏi tìm đâu khác. Kìa, bài Chứng Đạo Ca của Thiền sư Huyền Giác vừa mở đầu, Sư đã nhấn mạnh: ANH THẤY CHĂNG? (Quân bất kiến). Người học thường hay bỏ qua chỗ này, không ngờ chính đây là yếu chỉ của toàn bài Ca. Yếu chỉ ở đâu?

Đây này! Chưa nói gì mà bảo: “Anh thấy chăng?” là thấy cái gì? Rõ ràng ngầm chỉ Tổ sư luôn có mặt, cái ấy sờ sờ sẵn đó. Bởi đây là KHÚC CA CHỨNG ĐẠO, tức nói lên chỗ chứng, chỗ sống của Thiền sư Huyền Giác. Với chỗ sống đó thì lúc nào nó cũng sẵn sàng hiện tiền, chưa nói ra, chưa mở miệng, nhưng nó vẫn sờ sờ có đủ đó rồi! Tức nó mới mẻ tinh khôi, nguyên vẹn chưa có khái niệm gì chen vào. Vì vậy, chưa nói ra mà hỏi người: “Thấy chăng?” Nếu người lanh lợi, ngay đó nhận ra liền thì đâu còn bị những lời lẽ phía sau lừa nữa. Bao nhiêu lời lẽ của cả một bài ca chỉ là giải thích lại chỗ này thôi.

Và bài Bảo Cảnh Tam Muội, mở đầu liền bảo:

Pháp ấy như vậy,

Phật Tổ thầm trao.

Nay ông được đó, 

Nên khéo giữ gì (Như thị chi pháp, Phật Tổ mật phó, Nhữ kim đắc chi, Nghi thiện bảo hộ.)

Vừa mở lời liền nói: “Pháp ấy như vậy,” mà không nói là pháp gì, vì nó đã sẵn như vậy rồi, khỏi thêm khái niệm nữa. Chính đó là chỗ Phật Phật, Tổ Tổ thầm trao, thầm truyền. Nói thầm trao, tức lời nói không thể nói đến được, người nhận phải khéo thầm nhận thôi: Thầm nhận trước khi nói. Đã thầm nhận rõ rồi, phải khéo giữ gìn, khéo sống, không để tâm chia chẻ, lựa chọn chen vào liền tự khuất lấp ngay! Chỗ này còn có thể nói mới, nói cũ nữa sao?

Để kết thúc ý nghĩa này, xin dẫn đoạn nhân duyên Thiền sư Thạch Thê hỏi thị giả:

- Ông đi đâu?

Thị giả thưa:

- Con đi lên trai đường.

Sư bảo:

- Ta đâu không biết ông đi lên trai đường?

Thị giả thưa:

- Trừ ngoài việc này, riêng nói cái gì?

Sư bảo:

- Ta chỉ hỏi việc bổn phận của ông?

Thị giả thưa:

- Nếu hỏi việc bổn phận, con thật đi lên trai đường.

Sư bảo:

- Ông quả thậtthị giả của ta!

Thiền sư Thạch Thê muốn gạn lại chỗ sống hiện tiền của ông thị giả thế nào. Nếu là người khác hẳn bị Ngài Thạch Thê lừa ra khỏi việc ấy rồi. Hỏi đi đâu, nếu theo cái đi đó mà đáp, quên mất chính mình đang hiện hữu là nguy! Thị giả quả đang sống trong ấy nên sáng tỏ rõ ràng không lầm. Đáp đi lên trai đường, là chính thật mình đang hiện hữu trong đó. Hỏi việc bổn phận, thì cũng chính ngay đây “đang đi lên trai đườngđi lên trai đường,” rõ ràng sáng tỏ không thêm gì khác. Trong đây vừa có xen vào bất cứ ý niệm nào nữa là khuất lấp chính mình, là quên mất việc bổn phận ngay. Tâm thể tinh khôi chính đã đầy đủ trong ấy rồi!

Như vậy xác quyết rõ ràng là: Ai ai cũng đều có một “tâm thể nguyên vẹn tinh khôi từ thuở nào”. Hãy buông hết mọi khái niệm cũ mòn trong đầu, sống lại ngay chỗ này, chính đó là sinh mạng vĩnh viễn, khỏi tìm kiếm gì khác nữa!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25590)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37841)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19530)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18617)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14213)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20069)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9481)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14336)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35524)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10632)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19656)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23168)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13341)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10733)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20171)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10579)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9932)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14843)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17625)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17566)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13154)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31108)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25698)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13958)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17481)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10944)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12260)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10443)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12239)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11736)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9599)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12321)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9165)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8468)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9929)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9744)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12005)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14390)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9886)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11187)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8284)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10951)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14056)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9879)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15172)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13017)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23053)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23935)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12538)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15406)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17745)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15024)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16522)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16019)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17575)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11566)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11594)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17786)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10746)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10504)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11290)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12058)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11020)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36365)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8939)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9647)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34668)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17232)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10218)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10445)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12179)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13592)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14626)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9130)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24771)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11617)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10297)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15911)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15545)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14484)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12977)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12419)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14541)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18319)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9554)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18496)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18555)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18989)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18799)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11798)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13305)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47952)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11037)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13528)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13013)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11048)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12531)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11038)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31734)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11647)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant