CỬA THIỀN
HÉ MỞ
Thượng
Toạ Thích Thông Phương
TÂM
ẤN TÂM
I.
YẾU CHỈ MẬT TRUYỀN
Yếu
chỉ thiền tông thầy truyền cho trò là “lấy tâm ấn tâm”,
không dùng một pháp khác từ bên ngoài. Dù có đánh, có hét,
dù nói trái tai, nói thô bạo, nói nghịch lý v.v… chỉ là
phương tiện cởi mở tình chấp cho người, chỗ rốt ráo
vẫn là “một tâm in nhau” mà thôi. Người học chưa thông
cảm đến chỗ này, là còn đứng ngoài cửa, dù kiến giải
chứa đầy trong đầu.
Tuyết
Phong hỏi Đức Sơn:
- Việc
trong Tông thừa từ trước, con có phần chăng?
Đức
Sơn liền đánh cho một gậy bảo:
- Là
cái gì?
Tuyết
Phong như thùng lủng đáy. Hôm sau, Đức Sơn thượng đường
bảo:
- Tông
ta không lời nói, không một pháp cho người.
Như
vậy là lấy gì truyền, lấy gì nhận? Tuyết Phong hỏi: “Việc
trong Tông thừa từ trước, con có phần chăng?” là nghi mình
không có hay sao? Cho nên Đức Sơn liền đập thẳng vào trong
ấy, khiến tỉnh lại là xong. Quả thật Tuyết Phong ngay đó
hết chỗ bám. Nếu người cứ mong chờ có một pháp để
truyền trao cho mình nhận, hoặc thấy mình thật có nhận được
một pháp từ bên ngoài, dù pháp đó cao siêu đến đâu, vẫn
là người còn trong mộng.
Chính
đoạn nhân duyên thiền, Phật đưa cành hoa sen giữa đại
chúng, tất cả đều im lặng, khi Phật nhìn đến Tôn giả
Đại Ca Diếp. Tôn giả cảm thông với cái nhìn của Phật
liền mỉm cười, Phật liền truyền pháp, phó chúc cho Tôn
giả, tin tức mật truyền tâm ấn đã thổ lộ trong ấy. Ngày
nay, nhiều người nghiên cứu lịch sử nghi ngờ, cho đây là
đoạn kinh giả, không có sự thật lịch sử, mà quên rằng
kinh văn thì có thể nói giả, và cũng hẳn là giả vì thuộc
văn tự, nhưng ý sâu trong ấy vốn vượt ngoài chữ nghĩa,
còn gì nói giả, nói thật? Người học thiền hay học Phật
chân chánh, không phải học ở mấy hàng chữ ghi lại trên
giấy mực kia, mà phải học “ý sống không thể nói” kìa!
Bám theo chữ nghĩa, phân tích câu lời thì muôn đời không
thể hiểu thấu được Thiền chân thật. Thiền sư Tỉnh Niệm
ở chỗ Hòa thượng Phong Huyệt đã thâm đạt ý này, ngài
Phong Huyệt liền truyền pháp kế thừa tông Lâm Tế.
Sư
ở trong hội Phong Huyệt làm tri khách. Một hôm, Sư đứng
hầu, Phong Huyệt rơi nước mắt nói với Sư:
- Bất
hạnh! Đạo Lâm Tế đến ta sắp chìm lặng mất!
Sư
thưa:
- Xem
trong cả chúng này đâu không có người kế thừa Hòa thượng?
Phong
Huyệt bảo:
- Người
thông minh thì nhiều, kẻ thấy tánh thì ít.
Sư
thưa:
- Như
con, Hòa thượng xem thế nào?
Phong
Huyệt bảo:
- Ta
tuy trông mong ở ngươi đã lâu, vẫn e ngại đắm mến kinh
này không thể buông rời (Sư thường thầm tụng kinh Pháp
Hoa, nên được hiệu Niệm Pháp Hoa).
Sư
thưa:
Việc
này có thể làm được, mong nghe yếu chỉ ấy.
Phong
Huyệt thượng đường, nhắc lại việc Thế Tôn dùng con mắt
như hoa sen xanh nhìn đại chúng, bèn hỏi:
- Chính
khi ấy, hãy bảo là nói cái gì? Nếu bảo chẳng nói mà nói
lại là chôn vùi Thánh trước. Hãy bảo: nói cái gì?
Sư
bèn phủi áo đi ra. Phong Huyệt ném cây gậy trở về phương
trượng. Thị giả chạy theo sau thưa:
- Niệm
Pháp Hoa nhân gì chẳng đáp lời Hòa thượng?
Phong
Huyệt bảo:
- Niệm
Pháp Hoa đã lãnh hội.
Hãy
chú ý! Ngay khi Thế Tôn đưa mắt thanh tịnh như hoa sen xanh
nhìn đại chúng, chính khi ấy là nói cái gì? Và Thiền sư
Tỉnh Niệm đã lãnh hội chỗ nào? Yếu chỉ này vốn không
nằm ở câu chuyện xa xưa, cũng không ở mấy dòng chữ kia,
mà chính ở ngay người đang đối diện đây! Tiếc thay, bao
người cứ lo phân tích trên câu chuyện, quên mất ánh sáng
đang hiện hữu!
Ở
Việt Nam, Vua Trần Thánh Tông từng cảm nhận ý này và đã
tỏ bày trong đoạn pháp ngữ: “xưa nay nói một câu rốt
sau mới đến lao quan. Ba đời chư Phật bốn mắt nhìn nhau,
sáu đời Tổ Sư có phần thối thân. Những người tham học
hiện nay trọn nhằm trong câu tham lấy, lại hỏi các ông,
nhằm trong câu làm sao tham?”
Chư
Phật quá khứ, hiện tại, vị lai chỉ ở trong chỗ bốn mắt
nhìn nhau đó, chớ tìm ở trong câu này câu nọ, chớ giành
giựt, tranh cải ở trên cành hoa sen, hẳn không dính dáng!
Về
sau, Thiền sư Chân Nguyên, người trung hưng dòng Thiền Trúc
Lâm Yên Tử cũng chính mình chứng nghiệm việc này. Sư đến
tham vấn Thiền sư Minh Lương ở chùa Vĩnh Phúc núi Côn Cương
và hỏi:
- “Bao
năm dồn chứa ngọc trong đảy, hôm nay tận mặt thấy thế
nào”, là sao?
Thiền
sư Minh Lương đưa mắt nhìn thẳng vào Sư, Sư nhìn lại liền
cảm ngộ, sụp xuống lạy. Chính vì cảm sâu ý này nên về
sau Sư soạn quyển “Trần Triều Thiền Tông Chỉ Nam Truyền
Tâm Quốc Ngữ Hành” nói gọn là “Thiền Tông Bản Hạnh”,
Sư đã nhắc đi nhắc lại ý này đến bảy lần:
Đoạn
1:
Tứ
mục tương cố nhãn đồng
Thầy
tớ trao lòng, đăng chúc giao huy.
Nghĩa
là: Bốn mắt nhìn nhau đồng trong con mắt ấy. Thầy trao lòng,
ấn tâm cho trò ngay trong ấy, đèn đuốc xen nhau rọi sáng
trong ấy, khỏi tìm đâu khác.
Đoạn
2:
Tam
thế chư Phật Tổ Sư,
Tứ
mục tương cố thị cừ thiền cơ.
Nghĩa
là: chư Phật, chư Tổ trong ba đời vốn hiển bày cơ thiền
sâu xa ngay trong chỗ “bốn mắt nhìn nhau ấy”…
Tiếp
trong bài Ngộ Đạo Nhân Duyên của Sư có đoạn:
Nhất
điểm tâm đăng Phật nhãn sinh,
Tương
truyền tứ mục cố phân minh.
Liên
phương tục diệm quang vô tận,
Phổ
phó thiền lâm thọ hữu tình.
Nghĩa:
Một
ngọn đèn tâm mắt Phật sinh,
Truyền
nhau “bốn mắt ngó” rành rành.
Tiếp
thơm nối lửa sáng sáng mãi,
Trao
khắp thiền lâm phó hữu tình.
Mắt
Phật sinh ngay trong ngọn đèn tâm chớ không đâu khác. Đời
đời truyền nhau không dứt, chính từ trong chỗ bốn mắt
nhìn nhau đó! Nhà Thiền thầm trao, mật phó cho người là
trao phó ngay trong ấy thôi.
Như
vậy, “bốn mắt nhìn nhau” có gì đặc biệt trong ấy mà
nói đó là thiền cơ, là mật truyền? Trong đây, nếu nói
rõ hơn là: “Mắt mắt nhìn nhau, tâm tâm trực tiếp với
nhau không qua trung gian cái gì,” yếu chỉ “tâm ấn tâm”
quá rõ ràng còn nghi ngờ gì?
Kìa,
Thiền sư nhìn thẳng vào mắt mình, mắt mình đối diện thẳng
với Thiền sư, cái gì thầm cảm trong cái nhìn ấy? Chỗ này
ngôn ngữ làm sao nói đến? Trong đó vừa khởi niệm là rơi
bên ngoài xa tít rồi! Thiền sư truyền tâm là đó!
* Sùng
Tín đưa đèn thổi tắt:
Một
đêm Tuyên Giám đứng hầu Thiền sư Sùng Tín. Sùng Tín bảo:
- Đêm
khuya sao chẳng xuống đi?
Sư
kính chào đi ra, rồi trở vào thưa:
- Bên
ngoài tối đen.
Sùng
Tín thắp đèn cầy đưa cho Sư. Sư vừa định giơ tay tiếp
lấy, Sùng Tín liền thổi tắt. Ngay đó, Sư đại ngộ, liền
lễ bái.
Đây
là một đoạn nhân duyên truyền tâm tuyệt diệu, nhưng người
học thiền thường được nghe nhắc tới nhiều lần khiến
thành cái khuôn khái niệm hiểu biết trong đầu nên thấy
là thường,là cũ. Chính Sùng Tín đưa đèn là ngầm kêu gọi
sức sống hiện tiền nơi Tuyên Giám, nên Tuyên Giám liền
đưa tay ra tiếp lấy. Vừa giơ tay ra tiếp, sức sống ấy
đã lộ bày, đâu cần phải bám vào cây đèn bên ngoài kia
làm gì, nên Sùng Tín liền thổi tắt, để cho đèn Tuyên Giám
tự cháy. Tức ngay đó Sùng Tín đã truyền thẳng vào tâm
Tuyên Giám rồi. Và Tuyên Giám quả nhiên đã chín muồi, liền
tiếp ngay không qua cây đèn. Nói đúng hơn, tâm Tuyên Giám
đã in thẳng tâm Sùng Tín, mất dấu cả hai tâm, do đó Tuyên
Giám bừng sống dậy, vượt qua ông thầy. Nếu ngay lúc đó,
tâm Sư còn chứa chút niệm đây là thầy, đây là mình, ắt
đã lầm qua mất rồi! Quả thật đèn Sùng Tín đã được
thổi tắt đúng lúc và đèn Tuyên Giám cũng cháy đúng lúc.
Ai thấy đèn Tuyên Giám cháy thế nào?
Vừa
nghĩ ngợi, đã bị Sùng Tín lấy mất đi rồi.
* Vân
Môn gọi Thị giả Viễn:
Thiền
sư Trừng Viễn ở Hương Lâm, lúc còn ở trong hội Vân Môn,
Sư làm thị giả mười tám năm, Vân Môn khi tiếp Sư đều
gọi:
- Thị
giả Viễn!
Sư
đáp:
- Dạ!
Vân
Môn bảo:
- Ấy
là gì?
Như
thế đến mười tám năm Sư mới ngộ, Vân Môn bảo:
- Nay
ta mới thôi gọi ngươi nữa.
Ai
thấy gì chăng? Mười tám năm mỗi lần Vân Môn gọi là mỗi
lần đã mật truyền cho thị giả Viễn, nhưng tiếc thay thị
giả Viễn còn “theo tiếng gọi quên mình” đành để lầm
qua. Cuối cùng, một “tiếng gọi” đúng ngay “kẻ dạ”,
tâm truyền tâm, thầy trò thầm cảm thông nhau, người ngoài
không thể thấy được. Chính đấy trước kia Tổ Ca Diếp
gọi A Nan, mạch sống thiền tông một đường thông suốt.
Đây gọi là việc trong nhà cha con dặn dò nhau, không phải
chỗ cho kẻ bàng quan dòm lén, huống nữa sanh tâm bàn tán
lăng xăng càng không dính dáng.
II.
VƯỢT QUA NHỮNG PHƯƠNG TIỆN, HÝ LUẬN
Đã
là “đem tâm ấn tâm”, hẳn người học phải dọn tâm sẵn
sàng, tháo gỡ mọi chỗ dính mắc, không dừng trên bất cứ
phương tiện nào, dù lời nói cao siêu, thủ thuật đặc biệt.
Cần rõ, hễ có lập bày ra đều chưa phải thật, chớ lầm!
Hoài
Hải đứng hầu Mã Tổ, Sư thấy cây phất tử dựng ở góc
giường bèn hỏi:
- Tức
đây dùng hay lìa đây dùng?
Mã
Tổ bảo:
- Về
sau ngươi mở miệng sẽ lấy cái gì vì người?
Sư
cầm cây phất tử dựng đứng. Mã Tổ bảo:
- Tức
đây dùng hay lìa đây dùng?
Sư
để cây phất tử trở lại chỗ cũ, Mã Tổ nghiêm chỉnh
nạt một tiếng, đến ba ngày Sư còn điếc tai.
Dựng
phất tử lên, đó cũng là phương tiện chưa phải lý thật.
Nhằm trên đó mà nói “tức” nói “lìa” cũng là hý luận.
Dù người hiểu được mà chưa quên chỗ hiểu vẫn kẹt trên
cây phất tử. Một tiếng nạt, ba ngày điếc tai, hết còn
chỗ để nhớ để hiểu! Thiền sống là chỗ đó! Chính vì
vậy, sau này Sư truyền cho Hoàng Bá, rồi Hoàng Bá tiếp Lâm
Tế một mạch sống thiền không thể nghĩ bàn ấy. Lâm Tế
đến hỏi, Hoàng Bá chỉ đánh và đánh tới, đánh cho hết
chỗ bám, hết chỗ đại ý Phật pháp, hết chỗ lỗi phải,
cuối cùng chuyển cán gậy vào tay chính mình. Nếu còn ở
trên cây gậy sanh hiểu, còn ở trên câu Phật pháp sanh hiểu
là còn bị đánh! Hay thay! Hay thay! Lâm Tế sẵn sàng vượt
lên, nên Đại Ngu khơi nhẹ liền nhảy qua, “Phật pháp của
Hoàng Bá rất ít”, không có gì nhiều để hiểu!
Thiền
sư Tỉnh Niệm ở Thủ Sơn, một hôm giơ cây trúc bề lên
bảo:
- Gọi
là trúc bề thì chạm, chẳng gọi trúc bề thì trái, gọi
là gì?
Qui
Tỉnh chụp cây trúc bề ném xuống đất, nói:
- Là
cái gì?
Sư
bảo:
- Mù!
Qui
Tỉnh hoát nhiên đốn ngộ.
Trong
đây, Thiền sư giơ trúc bề lên, là phương tiện khai thị,
nhưng không cho người bám trên đó mà hý luận, mà sanh hiểu,
đây là thủ thuật truyền tâm của Thiền sư. Người mê cứ
bám trên cảnh của các ngài đưa ra đó mà tạo kế sống,
sanh kiến giải thiền đạo, quả là không dính dáng. Người
sáng mắt, cốt phải thấu qua trước khi giơ trúc bề lên
kìa! Nó vẫn sẵn đây rồi, còn nói gì là trái chạm?
III.
LẠNH NÓNG TỰ BIẾT
Đã
nói tâm ấn tâm, tức tâm tâm in nhau thì trong đó chỉ tâm
tâm tự thầm biết, người ngoài không thể dòm lén.
Có
vị tăng hỏi Thiền sư Quảng Trừng:
- Thế
nào là người xưa nay?
Sư
đáp:
- Ngồi
chung mà chẳng biết nhau.
Tăng
thưa:
- Thế
ấy
thì học nhân lễ tạ vậy.
Sư
bảo
- Thầm
viết lòng buồn biết gởi cho ai?
Muốn
biết người xưa nay, thì đấy “Ngồi chung mà chẳng biết
nhau”. Người ngoài làm sao hiểu nổi? Trong ấy ông muốn
lễ tạ nhưng cũng không có chỗ cho ông lễ. “Thầm viết
lòng buồn biết gởi cho ai?” Đó là chỗ tự chứng tự biết
thôi, không thể trông cậy vào bên ngoài.
Ngưỡng
Sơn hỏi Thiền sư Hồng Ân ở Trung Ấp:
- Làm
sao thấy được nghĩa Phật tánh?
Sư
đáp:
- Ta
vì ông nói một thí dụ: “như một nhà có sáu cửa, trong
có một con khỉ, ngoài có một con khỉ đến bên Đông kêu:
Chóe! Chóe! Bên trong liền: Chóe! Chóe! đáp lại, sáu cửa
đều kêu thì đều đáp như thế.”
Ngưỡng
Sơn lễ tạ thưa:
- Vừa
rồi nhờ Hòa thượng thí dụ, con đều biết rõ, nhưng có
một việc: Ví như con khỉ ở trong ngủ, con khỉ ở ngoài
muốn gặp phải làm sao?
Trung
Ấp liền bước xuống giường thiền nắm tay Ngưỡng Sơn
bảo:
- Chóe!
Chóe! Cùng ông thấy nhau rồi! Ví như con trùng tiêu minh làm
tổ trên mí mắt con muỗi, nhằm giữa ngã tư đường kêu
to: “Đất rộng người thưa, tri âm rất ít”
Chỗ
“chóe chóe” ta cùng ông thấy nhau rồi, mấy ai biết được?
Ai là tri âm để nhìn thấu trong đó mà cùng gặp Trung Ấp
và Ngưỡng Sơn? Quả là “thầm viết lòng buồn biết gởi
cho ai?” Chữ “Ai” này sao mà nghe nó thiết tha, nó thấu
xương tủy thế kia!
Tuy
vậy, nói lạnh nóng tự biết cũng chưa phải là chỗ tột.
Thiền sư Pháp Diễn lúc đầu học luận Duy thức, nhân Sư
nghe Bồ tát khi vào kiến đạo thì trí cùng lý hợp, cảnh
cùng thần hội, chẳng phân năng chứng sở chứng. Ngoại đạo
ở Ấn Độ thường nạn vấn các Tỳ kheo rằng: - Đã chẳng
phân năng chứng sở chứng, lại lấy cái gì làm chứng? Tỳ
kheo không đáp được. Ngoại đạo chê bai không đánh chuông
trống, chúng lại mặc ca sa. Khi Pháp sư Huyền Trang sang Ấn
Độ đã cứu được nghĩa này rằng: - “Như người uống
nước, lạnh nóng tự biết.” Từ đây giải được nạn
này. Pháp Diễn nghe thế tự hỏi: - “Lạnh nóng ắt là biết
vậy, nhưng thế nào là việc tự biết?” Sư liền đem thưa
hỏi với thầy dạy: “ - Chẳng biết lý tự biết như thế
nào?” Vị thầy không giải được, chỉ khuyên rằng:
- Ngươi
muốn rõ lẽ này nên đến phương Nam thưa hỏi những vị
truyền Phật tâm tông.
Sư
bèn mang hành lý sang phương Nam.
Đây
là điểm đặc biệt của Thiền sư Pháp Diễn. Nói lạnh nóng
tự biết, nhưng thế nào là chỗ tự biết? Mỗi người phải
có chỗ tự sống dậy, không thể chết trên ngôn từ của
người xưa. Nghe qua tưởng hiểu nhưng thật chưa phải tự
hiểu. Nghe nói “lạnh nóng tự biết” rồi bị người gạn
hỏi không thể trả lời được, cũng bắt chước bảo “lạnh
nóng tự biết” để cho qua, đây là giống thì giống mà
phải thì chẳng phải. Cần thực sự chính mình khám phá ra
chỗ “tự biết” đó, bằng chính ánh sáng trí tuệ của
mình mới không hổ thẹn. Phật pháp sống mãi trên thế gian
này là gốc từ đây. Thiền, không thể xuyên tạc được
cũng gốc từ đây. Ngôn ngữ không bao giờ với tới!
IV.
XÁC ĐỊNH CON ĐƯỜNG GIÁO NGOẠI BIỆT TRUYỀN, BẤT LẬP VĂN
TỰ
Với
yếu chỉ “tâm ấn tâm”, thiền xác định con đường mình
đi là trực tiếp đi thẳng vào tâm người, vượt qua giáo
nghĩa, văn tự đã lập bày. Tâm thầy thẳng vào tâm trò như
bốn mắt nhìn nhau, mắt đối mắt không nói nên lời. Đến
đây là bặt dấu vết của tâm, không chỗ để nghĩ. Nhưng
chính chỗ không thể nghĩ, đấy là chỗ ẤN TÂM.
Và
đây, Đại Đô An đến gặp Thiền sư Kiệt Phong Anh, Anh liền
hỏi:
- Giảng
chủ thường ưa giảng kinh gì nhất?
An
đáp:
- Kinh
Kim Cương và đã từng tỉnh ngộ qua câu “không từ đâu
đến cũng chẳng đi về đâu”
Anh
bảo:
- Nếu
không đến không đi, sao ông đến đây được?
An
đáp:
- Thì
chính là người không đến đi đó thôi.
Anh
bảo:
- Ngay
đây người đó ở đâu?
An
trả lời bằng một tiếng hét!
Anh
bảo:
- Thôi
hãy gác qua chuyện hét và thoi, khi bốn đại rã rời sẽ đi
về chỗ nào để an thân lập mạng?
An
đáp:
- Khắp
cõi đất này, cái ấy không phải chính ta ư?
Anh
bảo:
- Bỗng
gặp thời kiếp hỏa, lửa bừng cháy, đốt tiêu cả Đại
thiên thế giới, lúc đó ông ở đâu?
An
đáp:
- Không
biết.
Anh
bảo:
- Lục
Tổ vì cái “không biết” đó mà đi bửa củi, nấu cơm;
Bồ Đề Đạt Ma vì cái “không biết” đó mà ngồi quay
mặt vào vách chín năm, còn ông nói “không biết”, vậy
ông thấy cái gì?
An
đáp:
- Tôi
chỉ nói: “Không biết”
Anh
bảo:
- Gã
mù! Mời ngồi uống trà đi!
Thiền
sư Anh muốn gạn “người không đến đi” nơi Đại Đô
An, nhưng cuối cùng cũng không gạn ra chỗ nơi. Đại Đô An
có chỗ thấy, vượt qua mọi ngôn ngữ sai biệt, không để
lộ dấu vết cho tâm khác xen vào. Tuy nhiên, một cái “không
biết” của Sư rất dễ lầm người. Kẻ bắt chước, khi
bị gạn hỏi, trả lời không được, cũng đáp “không biết”
thì sao? Thật, giả làm sao phân biệt? Do đó Thiền sư Anh
gạn cho tới cùng xem cái “không biết” của Sư từ đâu
phát ra. Rõ ràng Sư tự có chỗ sống, không lệ thuộc bên
ngoài, nên trả lời xác quyết vững vàng: “chỉ nói không
biết”, khỏi thêm gì nữa! Người chưa đến được trong
ấy hẳn không thể hiểu nổi. Tuy nhiên, với Thiền sư Anh
thì tự thấy thầm hợp với chính mình, bèn ấn chứng khéo.
Bảo: Gã mù! Nhưng lại: mời uống trà! Trong ấy hai người
tự cảm thông nhau, mặc cho kẻ bàng quan đứng bên ngoài khởi
thắc mắc. TÂM ẤN TÂM là đấy!
TÂM
THỂ TINH KHÔI
TỨC
TÂM THỂ MỚI MẺ,
CÒN
NGUYÊN VẸN
Y
NHƯ NÓ LÀ NÓ TỰ THUỞ NÀO
I.
AI KHÔNG TÂM THỂ?
Điều
trước nhất cần xét kỹ lại xem, trên thế gian này, ai là
người không có tâm thể? Thấu được chỗ này thì rõ chỗ
căn bản mê lầm của chúng ta từ vô thủy đến nay.
Thường
chúng ta bị Phật gọi là mê, là sống trong hư vọng phải
chăng? Đã gọi là mê, nếu không có tâm, lấy gì là mê? Cây
đá, máu thịt, gân xương đâu biết mê? Có mê là chấp nhận
có Tâm rồi. Đây là một điểm.
Thứ
hai, gọi là vọng, tức là sao? Nghĩa là trái với chân thể
thì gọi là vọng chứ gì? Nếu hoàn toàn không có chân thể
thì nói vọng cũng dư. Cho nên nói vọng là ngay đó tự thầm
nhận có chân thể. Chính vì chúng ta bỏ quên cái TÂM THỂ
CHÂN THẬT ban đầu này, nên mãi lang thang đuổi theo bóng dáng
sanh diệt, gọi đó là vọng.
Vua
Trần Thái Tông trong bài kệ tóm tắt NÚI THỨ NHẤT có hai
câu:
Chỉ
sai hữu niệm quên vô niệm,
Liền
trái không sanh nhận có sanh.
Tức
là, đang ở trong thể vô niệm vô sanh an ổn không chuyện
gì, bỗng động niệm liền đó quên mất chính nó, ngay đó
là trái với vô sanh mà đi vào có sanh có diệt, đây là nhận
cái vọng chứ gì? Song, sở dĩ có niệm, có sanh là vì sao?
Vì quên chỗ vô niệm, vì trái chỗ vô sanh thôi.
Có
vị tăng hỏi Hòa thượng Lang Nha:
- Thanh
tịnh sẵn vậy, vì sao bỗng sanh núi sông, cõi đất?
Sư
đáp:
- Thanh
tịnh sẵn vậy, vì sao bỗng sanh núi sông, cõi đất?
Đây
là ông tăng dẫn kinh Lăng Nghiêm, Ngài Phú Lâu Na hỏi Phật.
Chỗ đặc biệt của Thiền sư là giống như chỉ lập lại
câu hỏi vậy thôi, nhưng lại là cách đáp chính xác vô cùng.
Câu hỏi là: Đang sẵn thanh tịnh như vậy, cớ gì bỗng sanh
ra các thứ? Thiền sư lập lại y nguyên câu hỏi, như dội
lại ngay chỗ vừa hỏi đó. Chính ngay đó, ông đang thanh tịnh
an ổn không việc gì, bất chợt khởi niệm hỏi, không phải
là trong ấy bỗng sanh núi sông, cõi đất hay sao? Ngay đó tỉnh
lại, liền rõ chỗ trước khi sanh chứ gì! Chỉ một chút
kẽ hở này liền phân mê ngộ cách biệt. Kinh Pháp Hoa gọi
là, cùng tử lang thang bỏ cha đi làm kẻ ăn mày nơi đất
khách quê người. Đất khách nào? Chính là các trần trước
mắt đây! Vừa ở trần này, lại vào trần kia, rồi bắt
qua trần nọ, cứ thế đi mãi, đi mãi… quên hẳn đường
về! Song, chính khi chạy vào các trần đó, thì cái gì chạy?
Than ôi! Lại mê cái ấy, chỉ biết có trần thôi, vô minh
là đấy!
Hòa
thượng Thạch Đầu đã từng bảo Đại Điên:
- Trừ
ngoài nhướng mày chớp mắt hãy đem tâm lại!
Đại
Điên thưa:
- Không
tâm có thể đem lại.
Thạch
Đầu liền bảo:
- Nguyên
lai có tâm sao nói không tâm, không tâm tức đồng với chê
bai rồi!
Kìa,
ông bảo không tâm, vậy chính “cái gì nói là không tâm đó?”
Bởi người người đều có sẵn tâm thể ấy mà bỏ quên
không chịu nhận, có mà không hay biết nên gọi là Mê, nhớ
lại là Giác. Lẽ thật rõ ràng như thế, còn gì nghi ngờ
nữa?
II.
TÂM THỂ Ở ĐÂU?
Đã
biết có tâm thể rồi, vậy thì tâm thể đó ở đâu mà mê?
Sự thật nó không ở đâu cả mà ở ngay chính mình, đó là
một điều không ai ngờ. Chính vì không ngờ nên mọi người
cứ chạy đi tìm. Nhưng tìm ở đâu cho ra?
Trong
Huyết Mạch Luận, Tổ Sư đã bảo: “Ba cõi đều dấy lên,
đồng về một tâm. Phật trước, Phật sau lấy tâm truyền
tâm, chẳng lập văn tự. Hỏi: - Nếu chẳng lập văn tự,
lấy gì làm tâm? Đáp: - Ông hỏi tôi chính là tâm ông, tôi
đáp ông chính là tâm tôi. Tôi nếu không có tâm, nhân đâu
biết đáp ông? Ông nếu không có tâm, nhân đâu biết hỏi
tôi? Hỏi tôi chính là tâm ông, từ vô thủy kiếp đến nay,
cho đến mọi hành động tạo tác trong tất cả thời, tất
cả chỗ đều là bản tâm ông”.
Trong
đây Tổ Sư xác định rõ ràng, tất cả thế gian có ra, dù
có muôn ngàn sai khác, mà không cái gì ra ngoài MỘT TÂM. MỘT
TÂM nào? Người học đạo cần thấu rõ chỗ MỘT TÂM này,
liền rõ gốc gác của sanh tử. MỘT TÂM đó, chính là “tâm
thể không hai” hay “tâm thể tinh khôi” chứ không gì khác.
Tâm thể này đâu thuộc văn tự chữ nghĩa? Ngòi bút nào ghi
được nó? Cho nên Phật Phật truyền nhau chỉ là truyền tâm
này. Hay nói rõ hơn, chính đây là chỗ sống của chư Phật,
lìa chỗ này thì Phật chỉ còn là Phật trong sách vở.
Đây,
Tổ Sư chỉ thẳng cho thấy tâm này ở đâu? “Hỏi tôi chính
là tâm ông, đáp ông chính là tâm tôi”. Chính ngay chỗ hiện
tiền “đang hỏi đáp”, tâm thể sẵn hiện hữu trong đó.
Nếu không có tâm, nhân đâu có hỏi, có đáp? Đây là nhân
cái DỤNG, Tổ Sư chỉ ra cái THỂ. Đã có cái dụng phát ra
nói năng, hỏi đáp, tới lui, qua lại đó, thì từ cái gì
mà khởi dụng? Nếu không có Thể thì lấy gì khởi Dụng?
Tuy nhiên chỗ này cũng dễ lầm! Nếu người hấp tấp nhận
cái nói năng, động dụng đó cho là bản tâm, thì cũng mê.
Tại sao? Vì nếu nhận cái “hỏi đáp” đó cho là bản tâm,
khi không hỏi đáp thì sao? Tức thành không có tâm hay sao?
Nhận như thế là nhận trên cái sanh diệt rồi! Trong đây
phải thật chính chắn. Cốt yếu là, người lanh lợi phải
khéo nhân đó mà thầm nhận trở lại “tâm thể kia”. Từ
tâm thể đó ứng dụng ra mới không lầm.
Để
rõ hơn, chúng ta hãy nghe thầy trò Qui Ngưỡng hiển bày “thể
dụng” cho thấy. Qui Sơn đang hái trà, Sư gọi Ngưỡng Sơn
bảo:
- Cả
ngày hái trà, chỉ nghe tiếng con mà chẳng thấy hình con.
Ngưỡng
Sơn liền rung cây trà. Qui Sơn bảo:
- Con
chỉ được cái dụng của nó, chẳng được cái thể của
nó.
Ngưỡng
Sơn thưa:
- Chưa
biết Hòa thượng thế nào?
Qui
Sơn im lặng. Ngưỡng Sơn nói:
- Hòa
thượng chỉ được cái thể của nó, chẳng được cái dụng
của nó.
Có
ai thấy được thầy trò Qui Ngưỡng chăng? Qui Sơn bảo hiện
hình, Ngưỡng Sơn “rung cây trà”, tức hiện hình đó rồi.
Sao Qui Sơn còn bảo “chỉ được dụng, không được thể”?
Chẳng lẽ ngoài cái dụng đó, riêng có cái thể nào khác
nữa? Nếu quả thực không có cái “thể” thì lấy gì hiện
ra cái “dụng” ấy? Đây là Qui Sơn ngầm nhắc cho người,
chớ lầm bị Ngưỡng Sơn gạt, chỉ thấy trên tướng động
của cây trà là mờ mắt. Phải thấy sâu qua chỗ “cây trà
không thể rung tới kia” thì mới tròn thể dụng!
Cho
nên tiếp theo Qui Sơn im lặng là bổ túc chỗ ấy. Nhưng người
không hiểu, theo lời mà bị gạt. Nghe Ngưỡng Sơn bảo: “Hòa
thượng chỉ được thể, không được dụng”, bèn chê Qui
Sơn là còn nghiêng lệch, tức lầm to! Nếu quả thực trong
đó chỉ có “thể” mà không có “dụng”, thì đó là cái
“thể chết”, vậy cái gì “Biết im lặng”? Thế nên trong
đây im lặng mà sáng ngời, mà vang như sấm, đừng tưởng
im lặng là không biết gì. Người mắt sáng, phải thấy thấu
qua tướng im lặng kia mới thấy được thầy trò Qui Ngưỡng.
Vì im lặng là đối với tướng nói năng, tướng rung cây
trà kia, cũng thuộc tướng sanh diệt đối đãi.
Trong
đây cần rõ: Ngưỡng Sơn rung cây trà, Qui Sơn đã hiện trong
đó! Qui Sơn im lặng, Ngưỡng Sơn cũng hiện trong đó! Đâu
thể tách rời chia hai mà nói một được, một chẳng được?
Rõ ràng tâm thể vốn hiện tiền đấy thôi.
Và
đây, Sở Nam đến tham vấn Hòa thượng Hoàng Bá, Hoàng Bá
hỏi:
- Thế
nào là trước khi ông chưa hiện hình trong ba cõi?
Sư
thưa:
- Ngay
hiện nay đâu phải có.
Hoàng
Bá bảo:
- Có
không hãy gác lại, ngay hiện nay thế nào?
Sư
thưa:
- Chẳng
phải xưa nay.
Hoàng
Bá bảo:
- Pháp
nhãn của ta chính ở nơi ông.
Cái
gì là trước khi hiện hình trong ba cõi? Tức “tâm thể tinh
khôi” chứ gì! Chỗ đó có hình tướng gì để thấy, để
nói? Song, người nghe hỏi như thế, bèn theo câu hỏi tưởng
xa xôi về quá khứ nào đó, là quên mất chính mình đang hiện
hữu. Ngài Sở Nam không lầm theo ngôn ngữ, nên đáp rõ: “Ngay
hiện nay đâu phải có”. Tức ngay đây, chưa khởi niệm thì
có hình tướng gì? Chính đó là tâm thể tinh khôi, là chỗ
chưa hiện hình trong ba cõi, đâu có tướng gì che mờ được?
Tuy nhiên, vừa động niệm liền có hiện hình rồi, là rơi
trong ba cõi liền đó.
Song,
Hoàng Bá còn gạn thêm: “Có không hãy gác lại, chính hiện
nay thế nào?” Nếu chưa phải người thực sống trong đó,
hẳn khó trả lời. Sở Nam đáp thẳng: “Chẳng phải xưa
nay”, tức vượt qua ý niệm xưa nay. Thể đó sờ sờ như
vậy, vốn chẳng rơi vào xưa nay, chẳng thuộc trong thời gian
trước sau. Rõ được chỗ này là mở con mắt pháp, ánh sáng
thiền xuất hiện ngay đó!
III.
TỪ ĐÂU TRỞ VỀ?
Rõ
biết được tâm thể này có sẵn nơi mình đây rồi, nhưng
hiện nay còn đang trong mê lầm thì từ đâu mà trở về?
Quả
thực cũng rất đơn giản, vốn chính từ cái BIẾT này
mà mê, thì cũng chính từ cái BIẾT này mà trở về thôi,
không có con đường nào khác. Nghĩa là, BIẾT yêu, BIẾT ghét,
BIẾT hơn, BIẾT thua, BIẾT phải, BIẾT quấy… đó là BIẾT
trong mê, BIẾT theo duyên, theo cảnh, là cái BIẾT đi trong sanh
tử luân hồi. Giờ đây, cứ ngay đó mà trở về là xong.
Kinh
Lăng Nghiêm, Phật bảo: -Những người tu hành chẳng thể thành
tựu Vô thượng bồ đề, cho đến riêng thành Thanh Văn, Duyên
Giác và quyến thuộc của ma, đều do chẳng biết hai thứ
căn bản, tu tập lầm lộn. Thế nào là hai thứ?
1.
CĂN BẢN SANH TỬ TỪ VÔ THỦY: tức chính ông hiện nay và
các chúng sanh dùng “tâm phan duyên” làm tự tánh.
2.
THỂ BỒ ĐỀ NIẾT BÀN THANH TỊNH SẴN CÓ TỪ VÔ THỦY: tức
chính ông hiện nay cái “thức thể sẵn tự sáng ngời”
(Thức tinh nguyên minh), nó hay sanh ra các duyên, mà bị các
duyên bỏ sót nó. Do các chúng sanh bỏ sót cái “sáng suốt
sẵn có”(Bổn minh) này nên tuy trọn ngày tu hành mà chẳng
tự giác, uổng đi vào các thú.
Dùng
tâm phan duyên làm tự tánh, đó là căn bản sanh tử từ vô
thủy đến nay. Tâm phan duyên tức cái Biết theo duyên chứ
gì? Còn “thể Bồ Đề niết bàn sẵn có từ vô thủy”
là ở đâu? Tức ngay cái “thức thể sẵn có sáng ngời”
hiện nơi mình đang sống đây thôi. Cái thức thể đó là
gì? Chính là CÁI BIẾT SỜ SỜ đây, hay cái TÂM THỂ TINH KHÔI
đấy! Chính CÁI BIẾT CÒN NGUYÊN VẸN, MỚI MẺ, TINH KHÔI NHƯ
NÓ LÀ NÓ CỦA TỰ THUỞ NÀO nên gọi là “thức tinh”. Nó
hay sanh ra các duyên, là nó Biết cái này, Biết cái nọ, Biết
đủ thứ không thiếu sót. Biết duyên tức là sanh, vì khi
biết cái nào là có cái đó hiện. Nhưng khi nó Biết cái gì,
thì nó chỉ nhớ cái đó, nó đồng hóa mình là cái đó mà
quên mất chính nó, nên gọi là “bị các duyên bỏ sót nó.”
Chính vì bỏ sót nó, gọi đó là Mê, là quên mất đường
về, nên đi vào các thú. Tu hành mà cứ lấy cái Tâm chỉ
Biết theo duyên đó để tu, thì bao giờ tự giác được để
trở về? Song, đường về ở đâu mà không trở về được?
Cũng chính ngay đó thôi. Muốn trở về, cũng phải ngay cái
Biết đó mà trở về, chính đây là quê nhà muôn thuở!
Trở
về thế nào? Chỉ cần: Biết tất cả mà không bỏ sót chính
nó vậy thôi.
Thiền
sư Lâm Tế - Nghĩa Huyền có lần thượng đường bảo: “Có
một người ở mãi giữa đường mà chẳng lìa nhà, có một
người lìa nhà mà chẳng ở giữa đường.”
Thật
là nghịch lý chăng? Tại sao lìa nhà mà chẳng ở giữa đường?
Ở giữa đường mà chẳng lìa nhà? Thiền như thách thức
với đầu óc quen đóng khung trong vòng lý luận của thế tình,
nhưng lại là một lẽ thật sáng ngời với người đã mở
mắt tuệ. Vậy ai thấy người nào ở mãi giữa đường mà
chẳng lìa nhà? Người nào lìa nhà mà chẳng ở giữa đường?
Và trong đây là mấy người? Quả thật chính là “tâm thể
tinh khôi” này thôi. Dù chúng ta đang mê mờ lang thang trong
trần, nhưng sự thật nó có đi đâu?
Chỉ
cốt ngay đây đổi lại: thay vì Biết tất cả mà quên mất
chính nó, giờ đây hãy Biết tất cả mà không bỏ sót chính
nó trong bất cứ trường hợp nào, trong bất cứ nơi chốn
nào, thì có chỗ nào vắng mặt nó đâu? Như thế rõ ràng
đâu đâu chẳng là quê nhà? Nghĩa ở giữa đường mà chẳng
lìa nhà sáng tỏ như ban ngày, có gì phải nghi ngờ!
Bài
kệ của Ngài Tam Bình nói:
Tức
thử kiến văn phi kiến văn,
Vô
dư thinh sắc khả trình quân.
Cá
trung nhược liễu toàn vô sự,
Thể
dụng hà phòng phân bất phân.
Nghĩa:
Chính
thấy nghe này chẳng thấy nghe,
Đâu
thừa thinh sắc đáng trình anh.
Trong
kia nếu rõ toàn vô sự,
Thể
dụng ngại gì phân chẳng phân.
Chính
ngay cái THẤY NGHE hiện tiền đây, thấy nghe tất cả mọi
sắc thinh nhưng không dừng ở một sắc, một thinh nào, tức
thấy nghe mà chẳng thấy nghe chứ gì. Đó là thấy nghe nguyên
vẹn như nó là nó, ngay đó trọn vẹn sáng ngời đâu còn
có chút sắc thinh nào lẫn vào để mà trình. Thấy nghe như
thế là toàn “THỂ” ở trong thấy nghe rồi, thấy là
toàn thể thấy, nghe là toàn thể nghe, vậy còn có cái thể
nào riêng khác nữa đâu mà chia là thể, là dụng? Người
còn chia chẻ đây là thể, kia là dụng, là rõ ràng chưa hết
mê!
Bàng
Uẩn ở trong hội Hòa thượng Dược Sơn, khi từ giã đi, Dược
Sơn sai mười thiền khách tiễn đến cổng. Ông bèn chỉ tuyết
trong hư không nói:
- Tuyết
đẹp từng mảnh từng mảnh chẳng rơi chỗ khác.
Thiền
khách Toàn hỏi:
- Rơi
ở chỗ nào?
Ông
tát Thiền khách Toàn một cái tát, Toàn bảo:
- Cư
sĩ không được vô lễ.
Ông
nói:
- Ông
thế ấy mà xưng là Thiền khách, Diêm Vương chưa tha ông đâu.
Toàn
hỏi:
- Cư
sĩ thì sao?
Ông
tát cho một cái tát nữa, nói:
- Mắt
thấy như mù, tai nghe như điếc.
Ông
Bàng Uẩn rõ ràng có chỗ thấy sáng ngời chẳng mê. Ngay tuyết
rơi, thấy rõ từng mảnh tuyết, từng mảnh tuyết rành rẽ
không lầm, không có một mảnh nào lọt ra ngoài con mắt ấy,
thì TÂM THỂ SỜ SỜ đó, còn phải tìm đâu nữa? Thiền khách
Toàn lại lầm qua, hỏi rơi chỗ nào? Đó là theo tuyết rơi
quên mất chính mình rồi. Tức bị các duyên bỏ sót nó rất
đau thương, nên liền bị tát! Vậy mà Toàn còn chưa tỉnh!
Nếu ngay đó khéo thấy trở lại, tức liền trên đường
về, mặc cho ông Bàng Uẩn tát, làm sao tát đến chỗ này?
IV.
VỀ ĐÂU?
Nói
ngay đó liền trở về, nhưng về đâu? Không khéo lại kẹt
theo ngôn ngữ thành mê nữa. Chỉ là trở lại trước khi khởi
niệm thôi, thấy có chỗ về là nằm mộng như cũ.
Bài
pháp đầu tiên Lục Tổ bảo Huệ Minh:
- Chẳng
nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, cái gì là mặt mày xưa nay của
Thượng tọa Minh?
Chẳng
nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, đó là Lục Tổ đưa Thượng tọa
Minh trở về trước khi động niệm, ngay đó tự nhận ra “mặt
thật xưa nay” của chính mình từ vô thủy thôi. Tâm thể
tinh khôi là đấy!
Sư
Nhan hỏi Hòa thượng Nham Đầu:
- Thế
nào là lý bản thường?
Nham
Đầu bảo:
- Động.
Sư
Nhan thưa:
- Khi
động thì thế nào?
Nham
Đầu bảo:
- Chẳng
phải lý bản thường.
Sư
im lặng giây lâu, Nham Đầu bảo:
- Nhận
tức chưa thoát khỏi căn trần, chẳng nhận tức hằng chìm
trong sanh tử.
Lý
bản thường, tức nó thường sẵn như vậy chưa có xen gì
vào. Nói theo đây là tâm thể mới mẻ, tinh khôi trước khi
động niệm chứ gì? Nó đã thường sẵn như vậy, chợt khởi
niệm hỏi thì sao? - Tức là động rồi. Mà đã động là
trái bản thường, là đi vào cái khuôn hiểu biết, khái niệm.
Nếu còn chần chừ nhận chẳng nhận, tức rơi vào hai đầu
sanh diệt, càng đi xa. Vượt qua đó, liền rõ lý bản thường,
khỏi hỏi thêm.
Nếu
người sống trong tâm thể tinh khôi này, thì nó Biết khắp
rất tinh tế, không chút gì qua lọt. Như Ngài Lâm Tế từng
bảo: “Sơn tăng nói pháp khác với mọi người ở khắp nơi,
hoặc có Văn Thù, Phổ Hiền xuất hiện trước mặt, mỗi
vị hiện mỗi thân hỏi pháp, vừa nói: -Thưa Hòa thượng!
Tôi đã sớm biết rõ rồi. Huynh đệ đến gặp nhau tôi trọn
biết rành. Chỉ vì cái thấy của tôi riêng khác, ngoài chẳng
nhận lấy phàm thánh, trong chẳng trụ căn bản, thấy suốt
trọn không có nghi lầm”.
Tại
sao Sư thấy hay như vậy? Chỉ vì “ngoài chẳng nhận lấy
phàm thánh, trong chẳng trụ căn bản”. Tức là luôn luôn
ở trong “tâm thể tinh khôi” ấy, không theo tướng phân
biệt phàm thánh bên ngoài, không trụ chỗ căn bản nơi tâm
bên trong, nói đơn giản là KHÔNG TRỤ TRONG NGOÀI, nên thấy
suốt không có nghi lầm. Tuy nhiên, không trụ bên ngoài thì
dễ hiểu, tâm bên trong cũng không trụ nữa là sao? Bởi vì
còn thấy có cái tâm căn bản để trụ, tức biến nó thành
cái đối tượng rồi, là có thêm cái bóng thứ hai án ở
trước, thì đâu thể thấy suốt!
Cho
nên trong đây vừa có TRỤ là mất tinh khôi, là có cái khác
xen vào. Do đó, trở về là về trước khi có trụ, trước
khi có bạn bè, ngay đó liền gặp “Người chẳng cùng muôn
pháp làm bạn”, khỏi phải chạy sang Trung Hoa tìm đến Tây
Giang uống cho cạn mới được câu trả lời.
Bởi
vậy, người thấu rõ chỗ này, là rõ tất cả cội nguồn
Phật pháp. Tất cả bí quyết của tông môn, tất cả sâu
kín của Tổ sư đều nằm trong đây, khỏi phải tìm đâu
khác.
V.
PHẢI LUÔN SỐNG MỚI MẺ TINH KHÔI
Bởi
tâm thể này vốn mới mẻ tinh khôi, vì vậy người muốn
đạt chỗ này, cũng phải giữ tâm luôn luôn mới mẻ tinh
khôi, không có chứa đựng nhiều khái niệm trong đầu, không
bám chặt vào một cái khuôn định sẵn khiến tâm cùn lụt,
chết cứng.
Hãy
xem, xưa kia Ngài Đại Mai - Pháp Thường đến hỏi Mã Tổ:
- Thế
nào là Phật?
Mã
Tổ đáp:
- Tức
tâm tức Phật. (Phật tức là tâm, tâm tức là Phật)
Sư
liền tỏ ngộ, về núi Đại Mai sống an ổn vững vàng, không
còn ai dối gạt được. Trái lại, hiện giờ chúng ta đã
nghe câu này không biết bao nhiêu lần, tại sao không ngộ?
Chính vì bị cái KHÁI NIỆM in sẵn trong đầu này. Vừa nghe
nói đến, trong đầu liền bảo ngay: “Tôi hiểu rồi”, thì
đâu có cơ hội để tỏ ngộ! Sự thật thì nó có thực hiểu
đâu. Hiểu đó, là Hiểu qua cái Hiểu của người xưa, Hiểu
của khái niệm cũ mòn, chết cứng thôi. Chính đó là nghe
với một cái tâm đã chết của quá khứ, chớ vội hài lòng!
Nếu
người còn chưa tin, hãy nghe vị tăng hỏi Điều Ngự Giác
Hoàng:
- Thế
nào là một việc hướng thượng?
Điều
Ngự đáp:
- Đầu
gậy khêu nhật nguyệt.
Tăng
thưa:
- Dùng
công án cũ của người xưa làm gì?
Điều
Ngự đáp:
- Mỗi
lần nhắc lại, mỗi lần mới.
Người
học đạo chớ bắt chước theo ông tăng này! Tin tức việc
lớn ấy vẫn luôn có sẵn bên mình, nhưng nếu chúng ta chỉ
nghe với tâm có chứa khái niệm trong đầu, thì chỉ nghe với
cái khuôn cũ kỹ, nghe với cái nhớ về quá khứ đã chết,
không đối diện được cái đang hiện hữu sáng ngời! Chỉ
nhớ có “đầu gậy”, nhớ có “nhật nguyệt”, thì đó
chỉ là danh từ rỗng thôi, làm sao đạt được “ý sống”
trong ấy? Đầu gậy làm sao với tới nhật nguyệt mà khêu?
Rõ ràng ý này đã vượt ngoài lời nói rồi, còn đâu để
nói mới cũ?
Nếu
người thực sự nghe với TÂM TRỐNG RỖNG, HOÀN TOÀN MỚI
MẺ TINH KHÔI, sạch mọi khái niệm đóng khuôn trong đầu,
thì bảo đảm nghe gì cũng mới mẻ, cũng sáng ngời, sẽ nghe
được những điều bất ngờ! Cho nên Điều Ngự bảo: “Mỗi
lần nhắc lại mỗi lần mới”. Nhắc lại là đang đối
diện trực tiếp với chính ông đây, tâm tâm đang trực tiếp
với nhau đây, đâu phải nói với người xưa mà bảo cũ!
Còn ông, ông chỉ nghe với mớ khái niệm cũ mòn in trong đầu
nên thấy là cũ. Như vậy, kết luận cho chính xác, là lời
nói cũ hay chính tâm ông cũ? Người học đạo cần nghiệm
kỹ chỗ này!
Chúng
ta hãy nghe chuyện Huyền Tắc với Ngài Pháp Nhãn. Huyền Tắc
ở trong hội Ngài Pháp Nhãn mà chưa từng thưa hỏi. Một hôm
Pháp Nhãn hỏi:
- Giám
viện Tắc sao chẳng vào thất thưa hỏi?
Tắc
thưa:
- Hòa
thượng đâu không biết con ở chỗ Thanh Phong đã có chỗ
thâm nhập.
Pháp
Nhãn hỏi:
- Ông
thử thuật lại cho ta nghe!
Tắc
thưa:
Con
hỏi Hòa thượng Thanh Phong: “Thế nào là Phật? (Có bản
ghi: Thế nào là tự kỷ của con?)” Hòa thượng
đáp: - Đồng tử Bính Đinh đến xin lửa.
Pháp
Nhãn bảo:
- Lời
khéo, nhưng ngại ông hiểu lầm nên nói lại xem.
Tắc
thưa:
- Bính
Đinh thuộc lửa, đem lửa đi xin lửa, như con là Phật lại
đi tìm Phật.
Pháp
Nhãn bảo:
- Giám
viện quả nhiên lầm rồi.
Tắc
nổi giận, quảy hành lý bỏ đi. Pháp Nhãn nói:
- Người
này nếu trở lại còn có thể cứu, nếu không trở lại thì
không thể cứu.
Tắc
đi giữa đường, nghĩ lại: “Hòa thượng là bậc thiện
tri thức của năm trăm người, há lại gạt ta sao?”, bèn
trở lại tham vấn tiếp. Pháp Nhãn bảo:
- Ông
hỏi ta đi, ta sẽ đáp cho.
Tắc
hỏi:
- Thế
nào là Phật?
Pháp
Nhãn đáp:
- Đồng
tử Bính Đinh đến xin lửa.
Tắc
liền đại ngộ.
Nghiệm
kỹ trong đây chúng ta sẽ thấy nhiều điều mới mẻ. Tại
sao, cũng một câu nói đó mà lần trước Huyền Tắc nói thì
chưa phải ngộ; lần sau Pháp Nhãn cũng lập lại thì thành
thật ngộ? Chỗ này đem khái niệm trong đầu để hiểu, có
thể hiểu được chăng? Bởi, chính lần đầu Huyền Tắc
đáp là đáp theo cái hiểu của khái niệm, của lối mòn suy
nghĩ thuộc tình thức, tự cho là hiểu mà thật là cái hiểu
bắt chước, lập lại. Lần sau, Pháp Nhãn đáp, là đáp trong
chỗ bất ngờ, Huyền Tắc không kịp suy nghĩ trước, tính
toán trước, tức là đang đối diện trực tiếp với nhau,
nên ngộ là thật ngộ! Chỗ này người đứng bên ngoài không
thể suy tư đến được.
Do
đó, người học đạo chúng ta phải tâm luôn luôn mới mẻ
tinh khôi như vậy mà ứng dụng, mà nghe, mà học đạo thì
lúc nào cũng sáng ngời vi diệu, lúc nào cũng nghe được những
điều chưa từng nghe.
Hãy
nhớ kỹ! Cũng câu kinh Kim Cang: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ
tâm” mà Lục Tổ nghe qua liền ngộ, Vua Trần Thái Tông đọc
đến liền tỉnh, còn chúng ta nghe hoài sao vẫn không ngộ?
Lỗi tại đâu? Tại câu kinh quá cũ hay tại cái gì?
Rõ
ràng tại vì chúng ta bị cái hiểu quá nhiều, quá in đậm
trong đầu, nên nghe đó chỉ là nghe với bóng dáng quá khứ
của chữ nghĩa chứa đầy, làm sao trực tiếp thẳng vào tâm
thể được?
Vậy,
ngay đây người học hãy buông sạch mọi khái niệm chứa
đựng trong đầu, mọi cái hiểu của quá khứ, để tâm nguyên
vẹn mới mẻ tinh khôi như nó là nó mà xem: cái gì đang đọc
những dòng chữ này?
VI.
TÓM KẾT
Lâu
nay chúng ta đã sống quá nhiều với những khái niệm chứa
đầy ắp trong đầu, giờ đây muốn học đạo để nghe những
điều chưa nghe, thì phải can đảm để tâm trống rỗng mới
mẻ tinh khôi mà học, mà nghe, đó là con đường sống dậy
của chính mình.
Chính
ngay đó là nguồn sống vô biên chúng ta cần trở về, chư
Phật, chư Tổ có sẵn trong ấy khỏi tìm đâu khác. Kìa, bài
Chứng Đạo Ca của Thiền sư Huyền Giác vừa mở đầu, Sư
đã nhấn mạnh: ANH THẤY CHĂNG? (Quân bất kiến). Người học
thường hay bỏ qua chỗ này, không ngờ chính đây là yếu
chỉ của toàn bài Ca. Yếu chỉ ở đâu?
Đây
này! Chưa nói gì mà bảo: “Anh thấy chăng?” là thấy cái
gì? Rõ ràng ngầm chỉ Tổ sư luôn có mặt, cái ấy sờ sờ
sẵn đó. Bởi đây là KHÚC CA CHỨNG ĐẠO, tức nói lên chỗ
chứng, chỗ sống của Thiền sư Huyền Giác. Với chỗ sống
đó thì lúc nào nó cũng sẵn sàng hiện tiền, chưa nói ra,
chưa mở miệng, nhưng nó vẫn sờ sờ có đủ đó rồi! Tức
nó mới mẻ tinh khôi, nguyên vẹn chưa có khái niệm gì chen
vào. Vì vậy, chưa nói ra mà hỏi người: “Thấy chăng?”
Nếu người lanh lợi, ngay đó nhận ra liền thì đâu còn bị
những lời lẽ phía sau lừa nữa. Bao nhiêu lời lẽ của cả
một bài ca chỉ là giải thích lại chỗ này thôi.
Và
bài Bảo Cảnh Tam Muội, mở đầu liền bảo:
Pháp
ấy như vậy,
Phật
Tổ thầm trao.
Nay
ông được đó,
Nên
khéo giữ gì (Như thị chi pháp, Phật Tổ mật phó, Nhữ kim
đắc chi, Nghi thiện bảo hộ.)
Vừa
mở lời liền nói: “Pháp ấy như vậy,” mà không nói là
pháp gì, vì nó đã sẵn như vậy rồi, khỏi thêm khái niệm
nữa. Chính đó là chỗ Phật Phật, Tổ Tổ thầm trao, thầm
truyền. Nói thầm trao, tức lời nói không thể nói đến được,
người nhận phải khéo thầm nhận thôi: Thầm nhận trước
khi nói. Đã thầm nhận rõ rồi, phải khéo giữ gìn, khéo
sống, không để tâm chia chẻ, lựa chọn chen vào liền tự
khuất lấp ngay! Chỗ này còn có thể nói mới, nói cũ nữa
sao?
Để
kết thúc ý nghĩa này, xin dẫn đoạn nhân duyên Thiền sư
Thạch Thê hỏi thị giả:
- Ông
đi đâu?
Thị
giả thưa:
- Con
đi lên trai đường.
Sư
bảo:
- Ta
đâu không biết ông đi lên trai đường?
Thị
giả thưa:
- Trừ
ngoài việc này, riêng nói cái gì?
Sư
bảo:
- Ta
chỉ hỏi việc bổn phận của ông?
Thị
giả thưa:
- Nếu
hỏi việc bổn phận, con thật đi lên trai đường.
Sư
bảo:
- Ông
quả thật là thị giả của ta!
Thiền
sư Thạch Thê muốn gạn lại chỗ sống hiện tiền của ông
thị giả thế nào. Nếu là người khác hẳn bị Ngài Thạch
Thê lừa ra khỏi việc ấy rồi. Hỏi đi đâu, nếu theo cái
đi đó mà đáp, quên mất chính mình đang hiện hữu là nguy!
Thị giả quả đang sống trong ấy nên sáng tỏ rõ ràng không
lầm. Đáp đi lên trai đường, là chính thật mình đang hiện
hữu trong đó. Hỏi việc bổn phận, thì cũng chính ngay đây
“đang đi lên trai đường là đi lên trai đường,” rõ ràng
sáng tỏ không thêm gì khác. Trong đây vừa có xen vào bất
cứ ý niệm nào nữa là khuất lấp chính mình, là quên mất
việc bổn phận ngay. Tâm thể tinh khôi chính đã đầy đủ
trong ấy rồi!
Như
vậy xác quyết rõ ràng là: Ai ai cũng đều có một “tâm
thể nguyên vẹn tinh khôi từ thuở nào”. Hãy buông hết mọi
khái niệm cũ mòn trong đầu, sống lại ngay chỗ này, chính
đó là sinh mạng vĩnh viễn, khỏi tìm kiếm gì khác nữa!